Bài nổi bật

Bí Mật Đêm Mùa Đông – Thomas Hardy

RadioVn.Com – Miền Tây Nam nước Anh. Hàng thế kỉ đã trôi qua, nông dân vẫn chăn thả những đàn cừu trên những đồi cỏ xanh rì, trải dài như vô tận. Đây đó thấp thoáng những ngôi nhà cỏ nhô lên trên những ngọn đồi xanh ngắt. Ngôi nhà cỏ của gia đình Fennel nằm khép mình trên ngọn đồi, cách thị trấn Casterbride ba dặm và thường ít khi có khách quá giang. Không có đường thẳng tới đó, chỉ có hai đường mòn nhỏ chạy ngang trước cửa nhà. Suốt mùa đông dài đằng đẵng, mưa tuyết, băng giá bao phủ nơi đây khiến việc đi lại càng thêm khó khăn hơn. Năm mươi năm về trước, vào đêm ngày 28 tháng Ba năm 1825, một trong những đêm đông băng giá nhất, đối lập với sự rét buốt ngoài trời là không khí ấm cúng và vui vẻ trong gia đình Fennel. Ông Shepherd Fennel đã mời rất nhiều bạn bè đến dự tiệc chúc mừng đứa con mới chào đời. Mười chín vị khách đã đến chung vui cùng gia đình Fennel có cả những phụ nữ đã có chồng và những cô gái trẻ, những người chăn cừu và cả những tá điền. Người trẻ tán chuyện tình yêu, kẻ già ôn lại dĩ vãng.
Ông Shepherd Fennel thật may mắn cưới được người vợ sắc sảo, giỏi giang. Đó là con gái của một tá điền sống trong thung lũng. Ngày về nhà chồng, bà mang theo món hồi môn 50 pound làm chút vốn liếng, số tiền đó bà ki cóp, dành dụm vun vén cho gia đình mới. Bà không bao giờ tiêu tiền vào những việc không cần thiết, và bữa tiệc đêm đó khiến bà phải vắt óc suy nghĩ, đắn đo rất nhiều. Bà băn khoăn: “Nếu tổ chức một bữa tiệc như thông lệ thì mọi người chắc chắn sẽ uống cạn mọi thức uống trong nhà. Nhưng nếu tổ chức dạ hội khiêu vũ, mọi người sẽ mau chóng cảm thấy đói và cuối cùng thì họ sẽ ăn sạch mọi đồ ăn. Cách tốt nhất là chúng ta sẽ tổ chức một bữa tiệc như thông lệ có kèm thêm màn khiêu vũ.” Và bà không quên rỉ tai cậu bé chơi vi-ô-lông chơi không quá mười lăm phút cho mỗi điệu nhảy.
Nhưng khi màn khiêu vũ bắt đầu, dường như không ai muốn dừng lại. Người nhạc công say sưa theo điệu nhạc, vờ như không thấy bà chủ nhà ra hiệu.Tiếng nhạc dập dìu mỗi lúc một lớn hơn, những bước nhảy cũng nhanh dần. Bà Fennel chẳng thể làm gì hơn ngoài việc ngồi bất động trong góc nhà, mỗi phút trôi qua mà cảm tưởng như hàng tiếng đồng hồ. Bên ngoài, mưa rả rích, trời tối đen như mực, một bóng đen đang leo qua ngọn đồi từ phía thị trấn Casterbridge. Một người đàn ông gầy, cao, cỡ khoảng bốn mươi tuổi khoác bộ đồ màu đen và mang một đôi giày ống cứng, to bè. Lúc gần đến cửa nhà Fennel, trời đột ngột đổ mưa rào. Người đàn ông bước khỏi con đường và tiến lên trước cửa. Anh ta chăm chú lắng nghe, lúc này tiếng nhạc trong nhà đã ngừng. Anh ta lại nhìn, không có ai khác trên đường và cũng không có bóng dáng ngôi nhà nào gần đó. Sau cùng, anh ta quyết định gõ cửa.
Ông Shepherd Fennel cất giọng: “Mời vào!” Tất cả mọi con mắt dồn vào người lạ khi anh ta xuất hiện. Anh ta không bỏ mũ, chiếc mũ được kéo thấp xuống che khuất cả phần trên khuôn mặt.
“Mưa to quá!?” Anh ta nhấn giọng. “Các vị có thể cho phép tôi vào trú mưa một lát không?” “Đương nhiên là được rồi!”, người chăn cừu đáp lại. “Anh đến thật đúng lúc, anh thấy đấy chúng tôi đang có một bữa tiệc để chúc mừng đứa con mới chào đời.”
“Hi vọng ông và người vợ hiền hậu của mình sẽ sớm có thêm những đứa trẻ đáng yêu như vậy”, người lạ mặt lịch thiệp mỉm cười với bà Fennel. Anh ta liếc quanh ngôi nhà và dường như rất thỏa mãn với những gì đang diễn ra. Anh ta ngả mũ, phủi nước mưa trên hai vai áo. “Làm một cốc chứ anh bạn?” ông Fennel đề nghị. Nhanh chóng, ông trao một cốc rượu mật ong cho người mới đến. Anh ta uống cạn một hơi và ngả cốc tỏ ý muốn uống thêm.
“Nếu ngài không phiền thì tôi xin một chỗ ở gần lò sưởi”, người lạ cất tiếng hỏi, “để hong khô quần áo một chút”. Anh ta tiến lại gần lò sưởi và bắt đầu xem xét kĩ ngôi nhà. “Một niềm đam mê khác của tôi đó là thuốc lá.” “Tôi sẽ mồi thuốc cho anh”, người chăn cừu chân thành nói.
“Ngài có thể cho tôi mượn tẩu chứ?”. Ông Fennel ngạc nhiên: “Ồ, một người nghiện thuốc lá lại không có tẩu ư?”. “Tôi đã đánh rơi nó đâu đó trên đường”. Người lạ mặt đỡ lấy tẩu thuốc của ông Fennel và tỏ ý không muốn nói gì thêm nữa.
Suốt bữa tiệc, mọi người không mấy để ý đến người mới đến bởi họ còn bận bịu thảo luận với nhau điệu nhạc tiếp theo là điệu gì. Nhạc vừa xướng, màn khiêu vũ cũng sắp sửa tiếp tục thì một tiếng gõ cửa lại vang lên. Nghe có tiếng gõ cửa, người lạ mặt lập tức quay lưng lại và dường như rất chăm chú vào việc mồi thuốc trong tẩu.
“Mời vào!” Sau giây lát, ông Shepherd cất tiếng đáp lại. Trong chốc lát một người đàn ông khác bước vào. Ông ta cũng là một người lạ. Người đàn ông này có điệu bộ khác hẳn. Ông ta trông rất vui vẻ, lớn tuổi hơn nhiều so với vị khách đầu tiên, tóc hoa râm, khuôn mặt hồng hào đầy đặn. Ông mặc một bộ com lê màu xám bên trong chiếc áo choàng đã ướt sũng.
“Xin lỗi các ngài! Tôi phải xin lánh tạm ở đây một lát, không thì tôi sẽ ướt sũng trước khi đến được Casterbridge”. Ông ta khẩn thiết. “Ồ, ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà”, ông Fennel vui vẻ nói, tuy sự đón tiếp không mấy nồng nhiệt như đối với vị khách đầu tiên. Ngôi nhà không rộng, không có nhiều ghế ngồi mà những vị khách không mời này lại mang theo cái giá lạnh, ẩm ướt.
Ông khách bỏ mũ và cởi áo khoác, ngồi phịch xuống chiếc ghế gần lò sưởi. Chỗ ông ta ngồi ngay cạnh người lạ mặt đầu tiên, anh ta mỉm cười lịch thiệp và chuyển cốc rượu mật ong cho vị khách mới tới. Ông đón lấy, đưa lên miệng, uống ực một hơi. Bà Fennel chứng kiến mọi việc và thấy không hài lòng chút nào khi thấy ông ta uống ừng ực thứ rượu mật ong quý giá của bà. Sau cùng, vị khách vận bộ com lê xám cũng đặt cốc rượu xuống, tỏ ra rất thích thú. “Mùi vị thật tuyệt vời, anh bạn ạ!”, ông ta nói. “Tôi chưa từng được nếm thử một thứ rượu nào ngon như vậy trong nhiều năm qua”.
“Rất vui khi nghe ngài nói như vậy!”, ông Shepherd Fennel trả lời.
“Đúng vậy, đó là loại rượu hảo hạng”, bà Fennel nói xen vào, thoáng chút lạnh lùng. “Dĩ nhiên rồi. Nó được làm từ mật ong nhà, và phải nói với ngài rằng chúng tôi đã khá vất vả mới có thể cất được loại rượu hảo hạng này. Nhưng chúng tôi không nấu thêm nữa – mật ong bán rất được giá, chúng tôi cũng chẳng cần nhiều rượu mật ong đến thế.”
“Ồ, bà không thể ngừng nấu loại rượu này được!”. Ông khách lạ sửng sốt. Ông lại cầm cốc rượu lên và dốc đến giọt cuối cùng. “Tôi thích rượu mật ong, cũng như việc tôi thích đến nhà thờ vào mỗi Chủ nhật, hay việc quyên tiền cho những người nghèo”.
Anh chàng ngồi sát bên lò sưởi bật cười lớn, tỏ ra rất thích thú trước những lời nói đùa của vị khách kia. Rượu mật ong trước đây cũng được làm từ những giọt mật ong ngon nhất, những quả trứng tươi nhất, vị rất mạnh, nhưng không thể sánh bằng với độ mạnh của loại rượu này. Chẳng bao lâu sau, vị khách trong bộ com lê xám trở nên hứng khởi hẳn, khuôn mặt đỏ như gấc. Ông ta lại tiếp tục câu chuyện.
“Như tôi đã nói đó anh bạn, tôi đang trên đường tới Casterbridge”. “Sau đó ông sẽ định cư tại đó chứ?”, ông Shepherd Fennel hỏi tiếp. “Tôi vẫn chưa quyết, mặc dù tôi đã có ý định chuyển đến đó từ sớm.” “Ngài đến đó để buôn bán chăng?”, người chăn cừu hỏi.
“Không đâu, anh yêu”, bà Fennel tiếp lời chồng. “Một quý ngài trông sang trọng thế này chắc chẳng cần phải động vào việc gì”. “Ồ, sự giàu có không có nghĩa lý gì với tôi cả, thưa bà”, vị khách đáp lại. “Tôi phải làm việc chứ, tôi cũng có công việc của mình. Thậm chí nếu tôi có đến Casterbridge vào lúc nửa đêm, tôi vẫn phải bắt đầu công việc lúc tám giờ sáng ngày mai. Dù trời nóng hay lạnh, mưa gió hay bão tuyết thì tôi vẫn phải tiếp tục công việc của mình.”
“Vất vả cho ngài quá! Mặc dù trông ngài rất sang trọng và thoải mái, nhưng cuộc sống của ngài có vẻ vất vả hơn chúng tôi rất nhiều, đúng vậy không?”. Bà Fennel tỏ ra cảm thông. “À, đó là công việc. Bây giờ thì tôi phải từ biệt các bạn. Nhưng trước khi đi, tôi vẫn có đủ thời gian để uống thêm chút nữa chúc sức khỏe cháu bé. Chỉ có điều cốc rượu đã hết sạch rồi”.
“Ngài hãy nếm thử loại rượu này xem”, bà Fennel mời. “Nó cũng được nấu từ những giọt mật ong ngon nhất”. “Không cần đâu, thưa bà”, người lạ nói. “Tôi chỉ muốn lưu giữ hương vị của loại rượu mật ong hảo hạng nhất.”
“Dĩ nhiên là được rồi”, Ông Fennel vội trả lời. Ông xuống tầng hầm và rót đầy rượu vào cốc. Bà Fennel theo sau chồng, hạ giọng lo lắng: “Em không thích vẻ bề ngoài của lão già đó chút nào! Lão ta đã uống hết phần của mười người rồi đó! Đừng mời lão ấy thêm rượu mật ong nữa!”
“Nhưng ông ấy đang là khách trong nhà chúng ta, em yêu ạ, giữa một đêm mưa tuyết lạnh giá thế này, mời ông ta thêm một chút cũng đâu có thấm gì?”. “Thôi được rồi, nhưng chỉ lần này nữa thôi đó,” bà Fennel nhìn hũ rượu mật ong tiếc nuối. “Nhưng mà ông ta là ai, và ông ta làm gì?”. “Em yêu, anh cũng không thể đoán ra được. Anh sẽ hỏi lại ông ta xem thế nào.”
Trong lúc vị khách lớn tuổi tiếp tục uống rượu mật ong, ông Fennel đã gặng hỏi ông ta về công việc, nhưng ông ta không trả lời ngay. Đột nhiên, người khách ngồi gần lò sưởi nói vọng ra.
“Có lẽ không ai đoán được tôi làm nghề gì – Tôi làm việc với những bánh răng”. “Và có lẽ cũng chẳng ai biết tôi làm nghề gì,” người đàn ông vận com lê tiếp lời, “nếu họ đủ thông minh để đoán ra được.”
Sự im lặng ngay sau đó bị phá tan bởi giọng hát của bà Fennel. Cốc rượu thứ hai đã khiến khuôn mặt của vị khách lớn tuổi càng đỏ gay gắt và ông có vẻ hứng khởi hơn lúc trước đến mức mà ông ngỏ ý muốn hát tặng tất cả mọi người. Ông cất vang lời bài hát: Công việc của tôi rất đặc biệt. Hỡi các bạn chăn cừu thân mến ạ. Một công việc mà cả thế giới đều biết. Tôi thắt cổ, đưa chúng lên cao. Và tiễn chúng đến một xứ sở xa xôi.
Tất cả mọi người đều im lặng ngoại trừ anh chàng ngồi cạnh lò sưởi, anh ta điệp lại câu cuối cùng với một chất giọng trầm du dương: Và tiễn chúng đến một xứ sở xa xôi.
Không ai hiểu được lời bài hát có ý nghĩa gì, ngoại trừ anh chàng ngồi cạnh lò sưởi, anh ta điềm tĩnh nói trong khi vẫn tục hút thuốc, “Hát tiếp đi chứ, ông bạn!”. Người đàn ông vận com lê lại đưa cốc rượu lên miệng uống một hơi rồi lại cất tiếng hát: Tôi không cần gì nhiều. Hỡi những người chăn cừu thân mến. Để tiễn đưa những kẻ tù tội.Chỉ cần một sợi dây và một giá treo cổ. Thế là đủ đối với tôi!
Lúc này tất cả mọi người mới vỡ lẽ ra rằng, vị khách lạ đang trả lời câu hỏi của chủ nhà bằng lời hát. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía ông, ai nấy miệng há hoác kinh sợ.
“Ôi trời, hóa ra ông ta là người thi hành án treo cổ!”, họ thì thào với nhau. “Ông ta đang trên đường đến Casterbridge để treo cổ người sửa đồng hồ tội nghiệp – một anh chàng đáng thương, không có việc làm, con cái nheo nhóc, đói khát, đến đường cùng đã ăn trộm một con cừu, và bây giờ thì phải đối mặt với án treo cổ vào sáng mai đây!”
Trong lúc mọi người chưa hết kinh ngạc thì tiếng gõ cửa lần thứ ba lại vang lên. Mọi người đều chưa hết kinh sợ, ông Fennel cất giọng mời lần thứ ba “Mời vào!”. Cánh cửa từ từ mở ra, và lại một khuôn mặt lạ hoắc xuất hiện. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc vàng hoe, ăn mặc gọn gàng. “Các ngài có thể chỉ cho tôi đường đến…”. Anh ta nói chưa hết câu đã lập tức ngừng lại khi nhận ra người đàn ông vận bộ com lê, người mà ngay lúc đó lại cất cao giọng hát: Ngày mai đây tôi lại tiếp tục công việc. Hỡi các bạn chăn cừu thân mến. Chỉ cần một sợi dây nhỏ. Chú cừu đã mất mạng và tên trộm phải trả giá. Hắn sẽ tìm thấy sự yên bình bên Chúa!
Người đàn ông gần lò sưởi cũng lại hào hứng tiếp lời: Hắn sẽ tìm thấy sự yên bình bên Chúa! Người đàn ông nhỏ bé vẫn đứng chôn chân tại cửa, tất cả mọi ánh mắt lại đổ dồn về phía anh ta. Họ sửng sốt khi chứng kiến khuôn mặt anh ta dần trở nên trắng bệch, đôi tay run rẩy, kinh hãi nhìn vị khách vận com lê. Ngay sau đó, anh ta đột nhiên bỏ chạy. “Đó là ai vậy nhỉ?” Ông Fennel thắc mắc.
Không ai trả lời. Căn phòng lặng im, mặc dù có tới hơn hai mươi người, chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi đập vào khung cửa sổ. Một tiếng nổ phá tan bầu không khí im lặng. Đó là âm thanh từ một khẩu súng, nghe chừng từ phía thị trấn Casterbridge.
“Có chuyện gì vậy?” nhiều người hoảng hốt. “Có một tên tội phạm đã trốn thoát khỏi nhà tù Casterbridge”, người đàn ông vận com lê xám đứng bật dậy khỏi ghế giải thích. “Tôi đang tự hỏi liệu gã vừa rồi có phải là tên trộm sắp bị hành hình?”
“Chính là hắn ta rồi! Gã nhìn ngài trân trối và run lên bần bật khi nghe tiếng hát của ngài”. người chăn cừu đáp. “Tôi cho rằng chúng ta phải tìm bắt hắn ngay lập tức!”. “Mặt hắn ta trắng bệch như một tờ giấy”, tay chơi đàn sửng sốt. “Tay hắn ta run lẩy bẩy như một lão già”, một tá điền khác chêm vào.
“Tim hắn có lẽ còn cứng hơn cả đá,” bà Fennel kinh hãi. “Hoàn toàn đúng!”, anh chàng ngồi gần lò sưởi lên tiếng. “Hắn ta đúng là mặt cắt không còn giọt máu, tay chân run lẩy bẩy, và chạy biến đi như gió”.
“Chắc tất cả mọi người đều thắc mắc tại sao hắn ta lại vội vã bỏ chạy như vậy, và bây giờ chúng ta đã có câu trả lời” một phụ nữ lên tiếng. “Có ai là cảnh sát ở đây không?”, người vận com lê xám cất tiếng hỏi. Một người chậm rãi bước ra phía trước sau khi được một người khác đẩy vai lên. “Tôi là một trong những cảnh sát hoàng gia, thưa ngài”, ông ta đáp.
“Hãy cùng với những người đàn ông có mặt ở đây đi tìm tên tội phạm ngay lập tức và áp giải hắn về đây. Tôi chắc chắn là hắn ta vẫn chưa thể đi xa được”. “Tôi sẽ đi ngay sau khi mặc xong quân phục, thưa ngài. Tôi sẽ về nhà lấy quân phục và quay trở lại đây ngay lập tức!”
“Quân phục! Lúc nước sôi lửa bỏng thế này mà còn chờ ông mặc quân phục sao! Tới lúc đó chắc tên tội phạm đã cao chạy xa bay rồi!”. “Tôi nhất định phải mặc quân phục! Có tên của nhà vua trên ngực áo. Tôi không thể bắt tội phạm mà không mặc quân phục.”
“Chính tôi cũng là một nhân viên cảnh vệ của nhà vua đây”, người vận com lê xám lạnh lùng nói – Tôi muốn ông ngay lập tức đi tìm bắt tên tội phạm đó! Bây giờ tất cả những người đàn ông có mặt tại đây hãy theo tôi. Mọi người sẵn sàng chứ?”
Những người đàn ông rời khỏi nhà và bắt đầu cuộc tìm kiếm, còn phụ nữ thì trở lên lầu chăm sóc đứa bé đang bắt đầu khóc thét lên. Nhưng phòng khách không yên tĩnh được bao lâu. Một vài phút sau, vị khách lạ ban đầu lặng lẽ quay trở lại ngôi nhà. Anh ta tự cắt lấy một mẩu bánh và uống hết một cốc rượu mật ong. Lúc người đàn ông vận com lê xám lặng lẽ bước vào anh ta vẫn còn đương nhai.
“Ồ, anh bạn ở đây à?”, người lớn tuổi mỉm cười, hỏi. “Tôi cứ nghĩ ông cũng đã đi rồi”, người kia hỏi lại. “À, không cần tôi họ cũng có thể tìm thấy hắn”, người vận com lê trả lời, tay với lấy cốc rượu. “Tôi cũng nghĩ như ông đấy!”. “Những người chăn cừu rất thông thuộc miền đồi núi này, họ có thể dễ dàng tìm thấy hắn ta và áp giải hắn đến cho tôi vào sáng mai. Sẽ chẳng có vấn đề gì khó khăn cho tôi cả”.
“Đúng vậy! Họ sẽ bắt được hắn ta, và thế là vấn đề được giải quyết.” “Đúng! Đúng như vậy! Tôi sắp sửa lên đường tới Casterbridge. Anh có cùng đường không? Chúng ta cùng đi.” “Ồ, rất tiếc là tôi lại đi lối khác.” Sau khi cốc rượu đã cạn, hai người đàn ông bắt tay nồng nhiệt, họ từ biệt nhau, mỗi người mỗi ngả.
Trên đồi, người chăn cừu cùng những người bạn vẫn đang cố gắng tìm kiếm kẻ bỏ trốn. Họ càng lúc càng ướt đẫm và lạnh cóng. Họ chẳng gặp may mắn chút nào cho mãi tới khi lên đến đỉnh đồi, nơi có độc một thân cây. Thật bất ngờ, họ thấy người đàn ông mà họ đang săn đuổi đứng ngay cạnh gốc cây.
“Muốn sống thì hãy xuống đây!”, viên cảnh sát la lớn. “Đừng nói như vậy! Đó là lời của những tên tội phạm, chứ không phải là những con người lịch sự, trung thực như chúng ta”, người chăn cừu thì thầm. “Ồ, tôi phải nói thế nào chứ? Anh biết đấy thật khó để có thể bình tĩnh được trong lúc này!”.
Kẻ chạy trốn bỗng cất tiếng hỏi: “Có phải các ngài đến để bắt tôi không?”
“Đúng như vậy đó”, viên cảnh sát đáp lại. “Chúng tôi đến để bắt anh. Đáng lẽ giờ này anh phải đang ở nhà tù Casterbridge để sẵn sàng cho bản án ngày mai chứ!”
Mọi người lại được phen ngạc nhiên khi người đàn ông nhỏ bé dường như không chút sợ sệt, tự nguyện quay trở lại ngôi nhà của người chăn cừu. Khi họ về đến nhà, có hai viên cảnh sát đến từ nhà tù Casterbride và một vị thẩm phán sống gần đó đang đợi họ.
“Thưa các ngài”, viên cảnh sát nói, “tôi đã bắt được tên tội phạm bỏ trốn, hắn ta đây!”.
“Nhưng đây không phải là tên tội phạm chúng tôi đang tìm!” một trong hai viên cảnh sát nhà tù Casterbrige la lên.
“Gì cơ?”, vị thẩm phán sửng sốt. “Đây không phải tên tù các anh đang tìm ư?”. “Vậy người này là ai mới được chứ?”, viên cảnh sát ngạc nhiên không kém.
“Tôi làm sao biết được”, một cảnh sát nhà tù Casterbrige đáp lại. “Người chúng tôi đang tìm hoàn toàn khác hẳn. Hắn ta cao, gầy, giọng trầm”. Ông Fennel sửng sốt: “Đó là vị khách lạ ngồi cạnh lò sưởi!”
Người đàn ông nhỏ bé đột ngột cất giọng: “Thưa ngài”, tôi có điều muốn nói. Tôi chẳng làm gì tội lỗi cả – tội lỗi duy nhất của tôi là tên tội phạm đó lại chính là anh trai tôi. Hôm nay tôi đang trên đường tới nhà tù Casterbride để tiễn biệt anh ấy nhưng trời tối quá khiến tôi bị lạc đường. Tôi dừng lại để hỏi đường và khi cửa mở tôi thấy anh ấy ngồi bên lò sưởi. Bên cạnh lại là người đàn ông sẽ thi hành án. Anh ấy nhìn tôi, và tôi hiểu ánh mắt ấy nói rằng: “Nếu nói cho họ biết thì mày sẽ chết chắc”. Tôi đã quá hoảng sợ không thể làm gì khác ngoài việc bỏ chạy”.
“Anh có biết hắn hiện giờ đang ở đâu không?”. “Không, thưa ngài. Tôi đã không gặp lại anh ấy từ lúc bỏ chạy khỏi đây”. “Hắn ta làm nghề gì?”. “Thợ sửa đồng hồ, thưa ngài”. “Hắn nói hắn làm việc với những bánh răng” – ông Fennel chợt nhớ lại – tôi cho rằng hắn ta muốn ám chỉ bánh răng của những chiếc đồng hồ”. “Chúng ta nên để người đàn ông tội nghiệp này đi. Rõ ràng, anh trai của anh ta mới là người bị truy nã”.
Một lúc sau, người đàn ông nhỏ bé buồn bã rời khỏi căn nhà. Sáng hôm sau, những người đàn ông lại kéo nhau lên đồi tìm bắt tên trộm láu cá. Nhưng họ không chú tâm lắm tới việc tìm kiếm. Họ cho rằng một người không đáng bị treo cổ chỉ vì đánh cắp một con cừu, và họ cũng rất khâm phục sự lạnh lùng đến hoàn hảo mà anh ta thể hiện khi ngồi ngay cạnh người sẽ thi hành bản án đối với mình trong bữa tiệc của ông bà Fennel đêm hôm trước. Kết cục là, kẻ chạy trốn không bao giờ bị bắt lại, người vận com lê xám cũng không bao giờ có thể thi hành bản án vào buổi sáng hôm đó, và ông ta sẽ cảm thấy nuối tiếc không có cơ hội gặp lại người lạ mặt thân thiện đã cùng ông ca bài ca của người thi hành án.
Những đám cỏ mọc xanh rì phủ trên mộ phần của ông bà Fennel, đứa trẻ ra đời năm đó bây giờ đã trở thành một quý bà. Nhưng câu chuyện về ba vị khách lạ xuất hiện trong ngôi nhà của người chăn cừu hôm đó vẫn được lưu truyền trên những ngọn đồi và trong các thung lũng quanh thị trấn Casterbridge
(Thomas Hardy – Anh; Diệu Diệu – dịch)

Xem thêm đề xuất

Cafe âm nhạc 12h – Mùa hè

RadioVn.Com – “Đẹp như ánh bình minh bừng lên giữa đêm tối …Đẹp như cánh đồng …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *