Nghe đọc truyện đêm khuya – Ám ảnh, dữ dội và tận cùng đau đớn… Đó là những tính từ trong số nhiều tính từ khác có thể bật lên ngay khi nghe xong truyện ngắn “Phiêu linh trắng” của nhà văn Nguyễn Thu Phương. Những bức tranh ấn tượng thêu bằng tóc trinh nữ là có thực. Có thực một Phi Yến mỏng manh tội nghiệp, ẩn mình trong ngôi biệt thự cũ kỹ nhạt nhòa ánh sáng, thêu như lên đồng, như thoát xác, như thể ngày mai không còn tồn tại trên đời. Phần còn lại là giả dối: người chị gái ở bên Phi Yến cùng những nhân vật quay quanh trục lợi nhuận từ các bức tranh đem lại, họ mải mê chạy theo đồng tiền, danh vọng, hào quang, chạy theo thứ tình yêu hư ảo.
Dưới ngọn đèn vàng cổ lỗ, ánh sáng hắt lên trong tranh kỳ ảo, mượt mà. Tôi ngỡ ngàng: chân dung của chính tôi. Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc. Phác họa một nụ cười xót xa.
Giờ thì em đang hòa nhập, hư ảo, loãng tan ra trong một thế giới khác.
Thế giới nơi người ta chỉ còn là những tia lửa không bóng sắc,
những sinh thể dạt trôi phiêu linh quá vãng,
những mảnh phù du lập lòe váng vất,
chút u mê sót lại của phần hồn.
Vậy là tôi lên xe đến Đ. để tìm gặp cô gái có cái tên Phi Anh. Đi theo nhiệm vụ được ba tôi giao. Ông là chủ một cửa hàng bán đồ lưu niệm không lớn lắm thuộc khu trung tâm thành phố. Không lớn – nhưng khá nổi tiếng vì chuyên bán những món hàng độc, những món mà khách sưu tập sành điệu cả Tây lẫn ta đều thích săn. Tự hào mà nói: shop đã có tên trong khá nhiều sách guide-book dành cho dân du lịch. Chính vì vậy, vừa nghe phong thanh thông tin về Phi Anh ở Đ., ông không thể bỏ lỡ. Đúng hơn, ông không quan tâm tới bản thân cô gái có cái tên là lạ, mà săn đón chủ yếu vì tranh của cô.
Những bức tranh được thêu bằng tóc!
Tranh thêu, cho tới thời điểm này đã phát triển đại trà, và gần như bão hòa. Đầu ra giảm nóng, đầu vào trăm hoa đua nở. Nhưng tranh tóc là ý tưởng hoàn toàn mới lạ. Người kể chuyện cho ba tôi nghe là một nhà nhiếp ảnh lớn tuổi có óc thẩm mỹ đáng tin cậy. Ông bảo rằng những bức tranh tuyệt đẹp. Họ bàn luận với nhau: có lẽ do được thêu bằng thứ chất liệu sống, nên tranh có hồn. Những đường nét như thở ra làn hơi của sự sống, như chuyển xoay, cựa quậy… Ba muốn là người đầu tiên ở thành phố bày bán những bức tranh khác thường, và nếu có thể, cửa hàng chúng tôi sẽ là đầu mối tiêu thụ độc quyền. Riêng với tôi, đây chính là cơ hội để thể hiện vai trò trợ lý đắc lực cho ba. Bởi tương lai không xa, tôi sẽ thay ông cáng đáng shop. Cũng theo lời nhà nhiếp ảnh già, Phi Anh tự tay thêu tranh không thuê mướn người ngoài, cũng không sao chép những bức họa nổi tiếng theo kiểu mà tranh thêu xưa nay vẫn làm. Cô ấy sáng tác. Tóm lại, có thể nói không quá rằng cô ấy giống như một họa sĩ phá cách cô đơn và độc đáo. “Những tác phẩm mãnh liệt, của một tác giả mãnh liệt”, nhiếp ảnh gia lớn tuổi nhấn đi nhấn lại. Tranh làm ra không nhiều, và không có bản sao. “Phàm thứ gì càng hiếm càng quí!”, ba tôi kết luận sành sỏi. Và tôi càng lúc càng tò mò về nhân vật quí hiếm ấy.
Tôi đã đến thành phố Đ. nhiều lần, nhưng hầu hết là đi chơi cùng đám bạn – chủ yếu lớt phớt cưỡi ngựa xem hoa. Đây là lần đầu công cán. Tôi đi xe đêm, lên đến nơi khoảng bảy giờ sáng. Xuống xe, xóc ba-lô lên vai, tôi ngoắt một anh xe ôm, trả giá chiếu lệ rồi leo lên ngồi sau anh ta. Vừa chạy xe vòng vèo lên đèo xuống dốc trong cái lạnh râm ran những khoảng hở của thịt da, anh vừa tẩn mẩn kể chuyện cho tôi nghe. Truyền thuyết về hoa, về thác, về suối, về thung lũng, về đồi thông… Tản mạn. Nhưng đầy chất thơ. Nghe để nhớ, có khi để quên. Nghe cho ngắn bớt một chặng đường đồi. Tranh thủ khoảng nghỉ lấy hơi giữa hai truyền thuyết, tôi hỏi anh ta về Phi Anh. Nhưng anh ngập ngừng, cuối cùng lắc đầu. Tôi nghĩ như vậy càng hay, một anh xe ôm mà đã biết thì có lẽ tôi chỉ là một đại diện thương mại tới trễ…
Vào đến khu trung tâm, tôi nhờ đưa đến một chỗ trọ nhỏ, anh ta hăng hái quá mức (có lẽ vì khoản hoa hồng chủ trọ hứa trước?). Tôi muốn có thời gian sửa sang hình thức, dù sao đối tác cũng là phái nữ. Anh ta dừng xe trước Hoa Hồng – khách sạn tư nhân ở khu khuất nẻo. Nội thất tầm thường, cảnh quan nhàm tẻ. Tuy nhiên tôi đã không phàn nàn, cũng không đòi đổi chỗ khác. Vì hai lẽ: từ đây lại địa chỉ của Phi Anh khá gần, và tôi nghĩ mình sẽ không ở lâu. Tôi trả tiền và bo thêm cho anh xe ôm, chào vui vẻ sau khi nhận số điện thoại của anh, hứa hẹn với anh sẽ gọi nếu cần đi đâu đó.
Ngay buổi chiều, cơm nước nghỉ ngơi tỉa tót xong xuôi, không điện thoại trước, tôi đến gặp Phi Anh.
o0o
Nhà nằm ở đầu đường dẫn vào một thung lũng đầy thông, hoa, rau, cây và trái. Biệt thự bé nhỏ, cheo leo đeo lấy sườn đồi, xinh như nấm nhà trong cổ tích. Dây leo hoa đậu biếc bao kín cổng, lan sang những bờ rào nghiêng ngả. Hoàng anh vàng mượt phủ kín vòm cong. Góc kia, bụi loa kèn trắng xanh đầy ấn tượng… Tôi kéo chuông cửa – một loại chuông tay cổ điển. Sợi dây truyền vào trong dội lại tiếng reo lanh canh vui tai của hàng cà-rem. Một cô gái xuất hiện khá nhanh ngay sau hồi chuông, mở rộng cánh cổng nhìn tôi. Cái nhìn thẳng và sâu của người bạo dạn. Nụ cười nặng chất thăm dò xã giao. Cô mặc đầm trắng, khoác áo len trắng. Nhẹ nhàng tươi tắn và xinh đẹp hơn rất nhiều so với những gì tôi đã nghĩ. “Một nhan sắc mãnh liệt”, thốt nhiên tôi lẩm bẩm, dùng luôn cái từ mà nhà nhiếp ảnh già đã dùng. Phải, “Mãnh liệt!”. Gật đầu chào, tôi vào đề bằng một câu hỏi:
– Có lẽ cô là Phi Anh?
Cô gái nhíu mày, thủng thẳng trả lời bằng câu hỏi khác:
– Có chuyện gì không, thưa ông?
Ấn tượng ra phết. Tôi mỉm cười:
– Chuyện khá dài dòng. Tôi có thể vào nhà?
Cô gái gật:
– Đồng ý. Nếu ông thấy cần.
A, cô gái này. Không lẽ cô luôn ở thế vừa phòng thủ vừa tấn công? Tôi so vai, chỉ còn cách gật: “Cần chứ!”. Và theo chân cô đi dọc lối sỏi nhỏ. Một phòng khách giản dị, ấm cúng. Một bộ bàn ghế kiểu xưa thật xưa. Vừa nhìn lên những bức tường, tôi đã bật nghĩ: mình đi chuyến này thật không uổng công. Đó, kia, và kia nữa! Trên tường treo hai bức tranh khổ sáu mươi – chín mươi, quá lạ lùng. Vừa dữ dội vừa huyền ảo. Một là cảnh cơn bão giữa ngàn trùng biển khơi – con tàu, những mảnh buồm, những thân người, những mỏm đá nhọn hoắt… tất cả tan nát, xô dạt, ngả nghiêng. Một là cảnh cháy rừng – muông thú hoảng loạn cuống cuồng, lửa đỏ tàn than khốc liệt. Thứ vật liệu kỳ diệu mà tôi đã biết trước là tóc đã làm cho cả hai bức tranh óng ánh khác thường. Thứ ánh sáng có hồn – theo cách nói của nhà nhiếp ảnh già. Đẹp mê muội. Chưa kể tài nghệ thêu và phối màu tuyệt hảo. Tuy nhiên vẫn nảy trong tôi thắc mắc về những sắc màu trái với màu tự nhiên của tóc: đỏ, cam, lam, tím, vàng, hồng, biếc… Như đọc được suy nghĩ của tôi (hoặc có thể tôi không phải là người đầu tiên nảy ra loại thắc mắc ấy), Phi Anh thủng thẳng:
– Hoàn toàn có thể đem nhuộm màu những sợi tóc trước khi thêu. Giống như nhuộm chỉ. Không có gì lạ hết!
Ra vậy. Tôi à lên, nhưng mắt vẫn chưa dứt được thứ ánh sáng óng ả trong hai khung gỗ như thôi miên. Ảo quang huyền hoặc. Từng mẩu nhỏ trong tranh đều phản sáng hoặc hắt lân tinh. Và chủ đề tranh. Và bố cục. Và đường nét… Quả tình không có từ ngữ nào phù hợp hơn từ mãnh liệt. Lại một lần nữa, Phi Anh đoán được suy nghĩ của tôi (hoặc tôi tiếp tục phản ứng giống như nhiều người đã tới đây?). Cô cười cười:
– Những bức tranh khác còn dữ dội hơn…
– Còn nhiều không? Tôi có thể xem được không?
– Sao nhỉ. Tôi còn chưa biết anh là ai?
– À… Tôi quên… Xin lỗi cô…
Vậy là một màn giao đãi diễn ra. Tôi nói về cửa hàng của ba tôi, về những cuốn guide-book, về website trên mạng, về khách Tây khách ta, về những món hàng độc đáo, và về nhiệm vụ của tôi. Nhắc nhở ít nhiều nhà nhiếp ảnh già có chòm râu bạc. Bài nói dài dòng, khô khan. Chứa đựng chủ yếu những thông tin cần trao đổi, những thương lượng, hơn là cảm xúc của tôi khi thấy người, thấy tranh, thấy cảnh trước mắt… Đã khiến cho không khí cuộc nói chuyện trở về đúng nghĩa một cuộc mua bán. Phi Anh lạnh lẽo:
– Ra vậy.
Tôi bỗng như đọc trong mắt cô ngay lập tức thái độ kẻ cả, cao ngạo. Tuy nhiên bề ngoài cô vẫn cố tỏ ra nhã nhặn, khiêm tốn:
– Cũng không nhiều đâu, tất cả chỉ mười hai. Nếu anh thật sự muốn, tôi sẽ cho anh xem mười bức còn lại.
Lại còn không muốn ư? Tôi đi theo cô vào gian trong. Ngay khi chúng tôi vừa bước vào, một cô gái khác cũng mặc toàn trắng đang ngồi trên chiếc ghế mây gần cửa sổ vội vã đứng bật lên, đi như chạy vào gian buồng kế tiếp. Và khép ập cánh cửa. Tôi chỉ kịp nhìn thoáng. Cô gái trẻ hơn Phi Anh. Tóc cũng dài nhưng lưa thưa. Thân hình mảnh dẻ xanh xao, nước da trắng bệch. Cái nhìn hình như hoảng hốt. Có lẽ sợ sệt. Một nhan sắc nhạt nhòa, không sức sống. Một cái bóng mờ. Một ảnh ảo… Phi Anh giọng dịu hẳn đi:
– Em gái tôi, Phi Yến. Nhà chỉ còn hai chị em. Bố mẹ tôi mất đã lâu.
Và cô khẳng định luôn:
– Tôi yêu em tôi nhất trên đời.
Tôi gật đầu với vẻ cảm thông, tránh không hỏi thêm những gì người ta không muốn nói. Thật ra, ánh mắt tôi đã bị hút vào những bức tranh khác treo ngay ngắn thành hàng trên tường. Cùng một phong thái tả thực mãnh liệt, cùng một cách tỏa sáng phi phàm, cùng những chủ đề dữ dội. Một đôi ngựa bờm đỏ tung vó dội ngược những cái đầu kiêu hãnh – những chiếc sừng bạc nhọn vút như sừng kỳ lân, hai con mắt hai bên và một con mắt giữa trán phát ra những tia sáng quắc; một đàn chim bay tan tác trong cơn mưa giông – một con trong đó cắp trong mỏ một ngọn lửa màu cam chói sáng; ba bức khỏa thân từ những góc độ hết sức khốc liệt, hai bức khác là những đôi tình nhân đang âu yếm nhau – hầu như luông tuồng, buông thả, đắm mê; một bức là những cánh bướm mang những con mắt người bén ngọt, bức khác là ba đóa hồng đỏ rực, trên nền lờ mờ một chân dung thiếu nữ sắc xám ủ ê, mắt và môi tươm máu; bức cuối cùng vẽ một người đàn bà mọc cánh bay lên, vẻ mặt bà ta nhuốm vàng cơn thất vọng chất ngất… Tôi hoàn toàn bị thuyết phục. Phi Anh khoanh tay, có vẻ hài lòng. Và chậm rãi nói, như đang cân nhắc từng lời:
– Sự thật thì… chúng tôi đang rất cần tiền để trang trải cuộc sống. Em gái tôi thường xuyên đau ốm… Nhưng… bán tranh không phải cách thức kiếm tiền duy nhất, nếu không được giá thà chúng tôi cứ để treo… Anh không phải người đầu tiên lặn lội đến đây đặt vấn đề mua tranh, nhưng tôi có cảm giác anh cuối cùng sẽ mua được… Chưa kể, anh đã đến từ một nơi xa xôi nhất, cũng là nơi sáng giá nhất… Dù sao, tôi luôn mong có cơ hội được trao những bức tranh tuyệt vời này vào tay một người am hiểu, biết cách phát tán chúng cho ai thật sự yêu thích, nâng niu…
Quá rành rọt, tôi thầm nghĩ. Cô không chỉ là họa sĩ giỏi, mà còn là một người rất biết thương thuyết. Cô tỉnh bơ đề cao tôi, tỉnh bơ làm giá tranh mình. Quá biết cách vừa xoa, vừa đập… Điều đó khiến tôi không vui, tôi thích cô ngây thơ dại dột, thậm chí ngơ ngác. Sẽ hợp với chất mãnh liệt đầy nghệ sĩ tính trong các tác phẩm mà cô đã vẽ. Cái giọng con buôn sành sỏi này, cứ như cô đã phân thân thành hai con người rất khác. Có thể những người đến trước tôi đã gợi cho cô cách thức tư duy theo kiểu cân đong, đo đếm? Có thể sự mê thích lộ liễu của tôi đã khiến cô động lòng sân si? Nhưng tôi phải tự an ủi, có sao đâu. Vụ làm ăn sẽ kết thúc nhanh gọn. “Cứ rõ ràng, sòng phẳng thì mọi chuyện sẽ giải quyết nhanh” – lời ba tôi đúc kết sau cả đời dài bạc tóc bán mua.
Kể cũng tiếc, tôi hầu như đã mến cô. Tôi thậm chí suýt nghĩ cô đòi bao nhiêu tôi cứ thế mà trả, không nì nèo căn cơ. Dù sao tôi cũng chỉ là một gã trai chưa vợ, trái tim quá dễ xúc cảm. Mà cô thì đẹp mãnh liệt, thông minh mãnh liệt, sắc sảo mãnh liệt… Nhưng khi chuyện bán mua được bàn luận thấu đáo theo kiểu này, tôi không có cơ hội đóng vai một kẻ tình si dại dột.
Phi Anh bỗng nhẹ nhàng thanh minh (lạ, tôi luôn có cảm giác cô đọc vanh vách từng ý nghĩ của tôi, để kịp ứng xử thích đáng):
– Một khi người ta sống côi cút không cha mẹ, còn phải bảo bọc cho một đứa em gái yếu ớt, bệnh tật… thì đương nhiên người ta phải biết cứng cỏi, rành mạch, đâu ra đó. Anh có đồng ý với tôi không?
Bỗng chốc, tôi không thể không tin là cô quá đúng. Suy cho cùng, một sự việc khi được thực thi với động cơ tốt đẹp, thánh thiện, sẽ mang những sắc màu hoàn toàn khác. Ở trường hợp này, cô gái cứng cỏi và rành mạch đứng trước mặt tôi không hề so đo tính toán cho bản thân. Cô còn gánh nặng của cô… Chừng như biết tôi đã thấm đòn, cô gật nhẹ:
– Chúng ta ra ngoài bàn bạc.
Sau đó, trong cuộc trao đổi tôi biết thêm một số thông tin. Rằng thứ tóc được dùng để thêu tranh hoàn toàn là tóc của các trinh nữ. Phi Anh có quen thân với khá nhiều nhà chùa, thiền viện ở vùng này… Khi các nữ tu thí phát quy y, họ có thiện ý trao lại cho cô mớ tóc của mình. Dài, đẹp, óng ả, thanh xuân. Một chút gì còn lại với đời. Tóc là thứ vật liệu bền vững không thể tính bao nhiêu kiếp người. Cải táng những ngôi mộ, người ta luôn thấy tóc là thứ còn lại cùng với xương và răng, sau khi da đã tan, thịt đã nát… Tôi cũng biết thêm, cô đang cần tiền để mổ tim cho em. Và cô muốn sửa sang lại ngôi biệt thự nhỏ đã có dấu hiệu rệu rã.
o0o
Tôi đã mua được tất cả tranh của Phi Anh với một số tiền tương đối lớn, nhưng cầm chắc một sẽ phải lời đến năm, sáu. Đem ra ánh sáng ngày, tất cả lại càng đẹp, càng ấn tượng hơn nữa. Tôi đưa danh thiếp cho cô, dặn đi dặn lại khi nào có thêm tác phẩm mới muốn bán, thì hãy nhớ liên lạc ngay cho tôi. Sau đó, tôi trở về khách sạn. Mất cả ngày hôm sau, tôi loay hoay đóng gói từng bức tranh thật cẩn thận. Đến chiều thì mọi việc đã tạm ổn, và tôi thở phào, nghĩ mình có quyền được hưởng một buổi tối thong thả trước khi lên đường trở về.
Sáu giờ chiều, khi tôi xuống đến quầy tiếp tân khách sạn thì thấy Phi Anh đã ngồi chờ sẵn. Tôi ngạc nhiên, chẳng lẽ chúng tôi còn gì để nói? Vẫn cái nhìn thẳng của một cô gái bạo dạn (rất khác với bản chất dịu nhẹ, kín đáo của nhiều thiếu nữ ở Đ.), Phi Anh nói:
– Tôi muốn… rủ anh đi dạo phố đêm. Nghe nói ngày mai anh về.
– Thật hân hạnh. Nếu vậy, tôi mời cô đi ăn.
Phi Anh vui vẻ đồng ý. Nói đi nói lại vẫn phải nói thêm, rằng cô đẹp quá. Đẹp đến nỗi khiến người ta khó thể cưỡng lại không yêu mến. Nhưng thấy rõ là cô luôn cố giữ khoảng cách, luôn thích tỏ ra lạnh lùng. Mặc kệ, tôi sung sướng được lang thang cùng cô qua những nẻo đường. Lên lên xuống xuống, bảng lảng sương giăng, vi vu thông hát. Khí lạnh buộc người ta phải co ro nép sát vào nhau, rồi tìm đến những quán cà-phê ấm. Chúng tôi ngồi đối diện qua ánh nến, qua mảnh bàn mộc mạc gỗ nâu. Ngồi mãi đến tận khuya. Phi Anh nói chuyện bằng một giọng du dương. Nội dung câu chuyện hấp dẫn, nhiều góc cạnh, nhiều ý tưởng. Phong thái cô tự tin, hoàn toàn làm chủ tình thế. Nhưng không hiểu sao tôi cứ có linh cảm rồi cô sẽ nói ra một điều gì đó, điều mà vì nó cô đi tìm tôi, điều mà cô cứ phải vòng vo tam quốc thật lâu trước khi mở lời.
Mãi cho tới khi quán chẳng còn ai ngoài hai chúng tôi, Phi Anh bỗng ngập ngừng:
– Anh sẽ… bán tranh của em cho những nhà sưu tập nổi tiếng và sành điệu, phải không?
– Anh chưa biết. Anh sẽ cố. Thật tình anh rất muốn…
– Nên là như vậy. Rất tốt cho cả anh lẫn em. Sẽ còn những bức tranh khác. Và sẽ là cả một dòng tranh độc đáo.
– Anh tin em đúng. Một cô gái có khả năng lại thông minh như em thì điều đó không phải quá khó.
– Anh đã nói muốn khai thác độc quyền tất cả loạt tranh thêu bằng tóc.
– Đúng vậy. Và anh nhớ chúng ta đã thỏa thuận. Có cần dùng văn bản để ghi nhớ điều này?
– Không cần đâu… Anh ạ, em nghĩ chúng ta sẽ được nhiều, rất nhiều, nếu biết cách. Vấn đề không phải là mục đích, mà là cách thức.
– Đừng nói trước, chỉ sợ bước không tới. Anh lo…
– Sự lo lắng đó không hợp với tuổi trẻ của anh, và nghị lực của em. Em thích nghĩ người ta có thể nắm được mọi thứ trong lòng bàn tay.
– Anh đã nghĩ về một điều khác… (tôi thở dài)
– Em đoán ra được điều anh nghĩ. Nhưng em chưa nghĩ (cô nhìn thẳng).
– Em tự tin lắm, hơn anh có thể hình dung.
– Phải. Em tự tin. Và… anh phải hứa sẽ giúp em?
– Anh hứa, miễn trong khả năng của anh.
– Lúc khởi đầu thôi, còn về sau tự em biết phải làm gì…
– Nếu em thành công, anh có thể thấy trước tương lai đáng thất vọng cho mối quan hệ của chúng ta! (tôi thoáng buồn)
– Xin đừng nghĩ em như kẻ vô ơn. (cô lại nhìn thẳng tôi)
Sau đó thì mọi chuyện xảy ra quá nhanh. Mười hai bức tranh đã về tay chín chủ nhân đáng giá chỉ trong vòng hai tháng (một người mua hai bức, một người mua ba, bảy người mua một). Ba tôi hết sức hài lòng: giá cả cao phát sốt. Thật sự thì trước khi tranh tìm được chủ, mọi chuyện đã kịp ầm ĩ. Người ta phát cuồng lên vì những ấn tượng mới mẻ. Báo chí bình luận rôm rả, truyền hình sôi nổi đưa tin. Các nhà phê bình hội họa cả chuyên lẫn không chuyên ồn ào nhập cuộc. Giới mỹ thuật người hưởng ứng kẻ phản đối, cái chính là hầu như không ai có thể lơ đãng. Dù muốn dù không, tôi trở thành đầu mối cung cấp thông tin về Phi Anh. Người ta cần biết cô, cần khoe cô ra cho nhiều người khác biết. Tôi nghĩ mình đã thực hiện được những gì từng hứa: giúp cô trong bước khởi đầu. Và cũng chỉ khởi đầu thôi. Rất nhanh, tất cả vượt khỏi tầm kiểm soát. Tràn ngập những nguồn thông tin chính thức và hành lang, xung quanh nhân vật mới nổi. Ở thành phố của tôi, người ta hay dễ điên lên vì mốt – kể cả mốt thích túm năm tụm ba sôi nổi bàn tán: về một thứ gì, hay một ai đó, một đám mây đang lên, một ngôi sao đang rạng, một mặt trời sắp xuống…
Chưa hết. Sau khi mua được tranh, những đại gia viên mãn họp lại hả hê. Họ bàn nhau tổ chức một cuộc triển lãm sang trọng tại một gallery thượng thặng. Họ bỏ tiền tài trợ mời tác giả (tức Phi Anh) về dự. Đợt bày tranh thành công ngoài sức tưởng tượng: từ chỗ tung hô tranh, người ta tâng bốc luôn những kẻ mua tranh có con mắt vàng, nhìn ra vẻ đẹp từ bóng đêm tăm tối. Chỉ tội cho những dân chơi sành điệu chưa kịp bổ sung cho bộ sưu tập của mình những bức thêu thời thượng. Họ xôn xao ấm ức, đổ xô đi tìm ba tôi.
Từ giây phút Phi Anh xuất hiện tại gallery trong dáng vẻ xinh đẹp, phong thái lạnh lùng, đầu ngẩng cao, cái nhìn kiêu hãnh; từ khi cô trả lời phỏng vấn trên hàng loạt báo, đài bằng ứng xử lịch duyệt, lời lẽ khôn ngoan, công chúng lại càng bị cô cuốn đi. Một giai nhân mãnh liệt sáng tạo ra những tác phẩm mãnh liệt. Nói như một cây bút lão làng chuyên lăng-xê người mới: “Nàng có đủ mọi phẩm chất để trở thành một ngôi sao sáng chói – và nếu vẫn tiếp tục sáng tác tốt, nàng sẽ giữ rất lâu vị trí ngôi sao trên bầu trời thành phố, thậm chí trong cả nước”. Thực dụng, ba yêu cầu tôi phải đi gặp Phi Anh ngay, với hy vọng cô vẫn giữ lời hứa cho chúng tôi độc quyền khai thác tác phẩm. Tôi nghi ngờ điều này. Nàng Lọ Lem bây giờ đã trở thành công chúa, là đối tượng săn đuổi của những đại gia hùng mạnh hơn chúng tôi bao nhiêu lần.
Tuy nhiên để chiều ý ba, tôi vẫn thử thời vận thêm một lần.
Trước tiên, tôi gọi về số điện thoại ở Đ., được nghe một giọng yếu ớt trả lời rằng chị Phi Anh có về, nhưng rồi lại đi, lại về, lại đi. Và hiện nay thì vẫn chưa về. Tôi đoan chắc đó là Phi Yến, cô em gái ẻo lả bệnh tật mà Phi Anh đã từng tuyên bố trên đời này cô yêu quí nhất.
Tôi ngọt ngào dò hỏi: Em thân mến, em có biết phải làm sao để liên lạc được với chị em không? Có cách nào để nhắn gửi không?
Cô gái yếu đuối trả lời rằng: Không. Những tiếng thở hụt hơi đứt quãng, những lời thầm thì khó đoán biết. Xen ngang là hai ba tiếng nấc nhỏ, nghẹn ngào. Không rõ lý do gì khiến tôi làm cô hoảng hốt…
Tôi cố mềm giọng hơn: Anh là người đã từng đến nhà, từng thoáng gặp em, từng mua tranh với chị em. Rất mong là em vẫn nhớ.
Phi Yến bớt run rẩy hơn: Dạ. Có. Em nhớ…
Tôi bỗng chốc bông lơn, muốn chọc đùa, hỏi: Em nhớ anh ra sao?
Cô nghẹn lời, đáp: Tha lỗi cho em, nhưng em không tả được, em không có khả năng, em không đủ sức diễn đạt bằng lời…
Tôi thở dài: Tiếc quá, vậy mà anh thì đã… nhớ em dễ sợ. Nhớ tới độ bị ám ảnh (?!)… Nhưng em à, thiệt tình anh rất mong gặp được chị em. Nếu em biết cách, làm ơn hãy giúp anh. Được không, em thân yêu?
Cô thì thào, nói: Vâng, đúng năm giờ chiều nay xin anh gọi lại.
Tôi đồng ý, chào cô, cám ơn cẩn thận và dịu dàng. Năm giờ chiều không sai một phút, chính là Phi Anh chủ động hẹn tôi.
Chúng tôi gặp nhau ở quán cà-phê giữa khu trung tâm. Mới đó mà Phi Anh đã quá khác xưa. Cô càng đẹp lộng lẫy, càng thản nhiên, càng lạnh lùng hơn. Gương mặt dửng dưng, giống như mặt nạ. “Cám ơn anh về tất cả”, cô lơ đãng. Bất chợt xoay sang nhìn tôi, “Không có anh thì em làm sao có được như ngày hôm nay…”. Tôi chẳng thấy hân hoan, có lẽ do hơi hướng xã giao lạnh lẽo tỏa theo mỗi lời cô nói. Tôi chợt nghĩ, Phi Anh có vui sướng thật không? Nếu không, cô chẳng việc gì phải hội nhập vào một cuộc sống vàng son, hào nhoáng mà cô không cần. Tôi chán nản:
– Em có thừa thông minh để biết anh cần gặp em vì lý do gì.
– Phải. Em biết. Anh cần mua tranh.
– Và em không cần phải giữ lời hứa.
– Em sẽ giữ lời hứa với anh.
Tôi nhún vai, tỏ ý không tin. Cô bật cười:
– Thì cứ coi như em muốn trả ơn anh.
– Sòng phẳng quá…
– Không, em cần anh thật mà. Chẳng phải chính em đã chủ động hẹn anh sao? Em sẽ bán cho anh năm bức tranh mới hoàn thành.
Tôi nhẹ nhõm thở phào. Tôi đã ngờ oan cô dựa theo những đổi thay bên ngoài. Thật võ đoán, sai lầm. Phi Anh trở lại lạnh lùng:
– Lần này là tranh theo trường phái ấn tượng…
– Em bây giờ thêu gì mà chẳng bán được. Thiên hạ cuống lên vì tranh em. Năm bức sẽ không bõ bèn gì đâu…
– Em biết, nhưng sức người có hạn. Anh quá hiểu mà, sáng tác đâu phải như sao chép.
– Vâng, anh hiểu. Chưa nói chất liệu sử dụng lại là tóc…
Năm tác phẩm phi thường. Và dễ sợ. Những ám ảnh nào đã vướng vít trong tâm hồn Phi Anh, để đến khi tượng hình tượng dạng thì méo mó, kinh hoàng, ngả nghiêng, gãy đổ, vỡ toác, điên cuồng đến đỉnh điểm… Không là cái gì nguyên vẹn: những vết nứt địa chấn, những dòng nham thạch tuôn đổ, những cơn đại hồng thủy, những gương mặt người dị dạng, những cơn giao ái hân hoan, những mắt, miệng, mũi, môi sứt sẹo, lung lay, những tay, chân, đầu, mình quằn quại, rên siết… Cảm giác như người tạo tác đã cố rướn lên, dù chỉ một lần rồi thôi, để tinh anh phát tiết tới tận cùng, và ngày mai sẽ chết…
Tôi đã trả một số tiền rất lớn cho cô, nhưng ba tôi vẫn sướng run lên khi lô hàng về tới. Công bằng mà nói, dù không hiểu gì về ý đồ, bố cục, sắc màu, nghệ thuật, người ta vẫn phải thốt lên rằng tranh quá đẹp. Quá hoàn hảo về mặt gây cảm xúc. Ý thức rằng đây là cơ hội vàng, ba tôi không vội bán ra. Và ông đã tính không sai. Những kẻ đam mê đẩy giá tranh dâng lên từng nửa tháng, từng tuần, từng hai ba ngày, rồi thậm chí từng ngày. Như trong một cuộc đấu giá khốc liệt. Ba tôi tỉnh táo khôn lường, ông thuần thục cách đeo bám mồi của con sói già.
Còn tôi, học lối cừu non, mỏi mê vô vọng dõi theo Phi Anh.
Tôi biết chắc giờ đây cô đã trôi xa khỏi tầm tay. Vài lần gọi vào số di động mà cô cho, không có trả lời, tôi tự bảo mình “Hãy thôi đi. Làm ơn thôi đi”. Cô vốn dĩ lạnh như băng, lại đang là ngôi sao. Mới nhất, tôi nghe cô được mời sang Paris, dự một triển lãm tranh. Rồi cô đi Ý, đi Úc. Khi cô trở về, cũng là lúc ba tôi bán ra bức tranh cuối cùng mà ông cố ghìm với giá tiền cao nhức nhối. Riêng tôi, sa lầy trong tình cảm đơn phương. Tôi biết là tôi yêu. Nhưng tôi tự cười: không hiểu sao những lúc gặp nhau, giữa chúng tôi chỉ toàn những chuyện làm ăn, cân đong đo đếm, sòng phẳng bán mua. Âu cũng là số phận. Cho tới một ngày, trên một mặt báo tôi thấy đăng tấm ảnh Phi Anh và một người đàn ông cười rạng rỡ bên nhau. Người ta đưa tin cô lấy chồng. Hai hôm sau, điện thoại của tôi rung lên, chính là cô gọi. Để mời dự đám cưới.
Thật tức cười khi chính trong ngày cưới của cô, chúng tôi lại thỏa thuận xong với nhau một vụ làm ăn mới. Phi Anh cam kết sẽ bán cho tôi bộ tranh trừu tượng mười lăm bức. Tôi ngạc nhiên khi cô dặn tôi giấu chồng. Càng ngạc nhiên hơn khi được xem tranh. Cô thay đổi luôn luôn, mỗi lần tung tranh ra là một lần tự làm lạ, làm mới mình, lần sau mãnh liệt hơn lần trước. Tưởng như cô đã lên đến đỉnh, nhưng không, Phi Anh vẫn còn có thể lên cao. Cao mãi. Bộ tranh lần này khó thể được tiếp nhận ngay trong lần chiêm ngưỡng đầu tiên. Nhưng ra về thì người ta bị ám ảnh, muốn trở lui quay lại xem. Kể từ lần thứ hai, tranh hút hồn người ta vào một thế giới siêu thực, vỡ òa, thẳm sâu. Người ta như muốn phát điên vì cảm xúc… Tôi không còn lời nào để nói, đời với cô viên mãn quá: vừa thành danh, lại vừa hạnh phúc. Tôi biết Phi Anh lấy chồng vì tình yêu, không phải vì so đo, khác với trước nay cô vẫn thường hay toan tính. Chồng cô không giàu, không danh vọng, không thế lực, nhưng chắc chắn có những phẩm chất tuyệt vời tương hợp với cô. Tôi mừng vì cô hạnh phúc, và tôi thấy tội nghiệp mình.
Trong khi ba tôi thì hãnh diện chất ngất với công trạng mà tôi đã lập, ngợi khen tôi không tiếc lời. Nhờ bán tranh Phi Anh, ông phất lên như diều. Đem tiền đó đi đầu cơ vô bất động sản, ông lại càng thắng lớn. Ông vững bước trở thành một đại gia. Hệ thống năm cửa hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu niệm của ông vươn như vòi bạch tuộc, tóm chặt địa bàn kinh doanh khai thác khách du lịch. Nếu biết tôi làm hỏng cơ may cưới cho ông cô con dâu dệt tóc ra vàng, chưa biết ông sẽ còn tiếc rẻ đến đâu. Thật vô lý cái vòng luẩn quẩn này: ba tôi cần tranh Phi Anh để tiếp tục hái ra tiền – tôi cần chứng tỏ với ba rằng tôi được việc – cô cần bán tranh cho tôi vừa có lợi vừa có danh, vừa để tự trấn an đã giữ lời hứa – và tôi cần gặp cô vì tôi yêu cô. Tôi yêu cô, yêu tâm hồn tinh tế đã thúc đẩy cô vẽ nên những bức tranh phi thường, yêu nhan sắc tuyệt trần, yêu cái vỏ lạnh lẽo bí ẩn khôn cùng; nhưng tôi đã luôn bàng hoàng ghê sợ trước vẻ ngoài tỉnh táo, mưu toan và đầy thực dụng– một Phi Anh quá khác.
o0o
Tôi quay lại Đ. trong một buổi sáng ảm đạm mưa giăng. Đêm qua, Phi Anh nức nở gọi cho tôi, báo tin em gái cô vừa mất.
Đám tang lặng lẽ thưa người. Không gian ủ ê. Vắng bóng ông anh rể mới. Chỉ có một lý do, bởi vì Phi Anh muốn vậy. Mắt cô thâm quầng, sũng nước. Nghẹn lời, cô kể cho tôi hay đã không kịp đưa Phi Yến đi mổ tim, dù bạc tiền dư dả đã từ rất lâu. Cô có quá nhiều cơ hội, nhưng lại quá thiếu thời gian. Cô có quá nhiều việc để làm, nhưng không làm được việc cô muốn nhất. Bệnh tật của cô em gái đã trở thành đòi hỏi thứ yếu, cứ thế lùi lại dần, nhường chỗ cho bao nhiêu các loại ưu tiên khác. Cô phản bội và thất hứa. Cô mải mê đuổi theo hạnh phúc bản thân, mải mê leo cao lên đài danh vọng. Cô càng muốn thì càng có nhiều, càng có thì càng muốn nhiều. Để giờ đây cô đánh mất vĩnh viễn tạo vật trên đời mà chính cô luôn tuyên ngôn rằng yêu quí nhất.
Buổi tang lễ có một điều kỳ quặc làm tôi phải chú ý: người ta đã chôn xuống ngôi mộ cùng lúc hai chiếc quan tài. Một chiếc cho người chết (thì đã đành), còn chiếc kia là của một con rô-bốt. Rô-bốt có kích cỡ như người, nói thẳng ra là bản phỏng theo khá chính xác nhân dáng Phi Anh. Cô giải thích vắn tắt với tôi: cô đã dành phần lớn số tiền kiếm được để đầu tư cho việc nghiên cứu, chế tạo, tu bổ, hoàn thiện người máy này. Nó có khả năng thực hiện các thao tác đơn giản, nói được vài câu ngắn gọn, thậm chí có thể giao tiếp theo một số chương trình cài đặt sẵn. Tuy giống, nhưng vì chỉ là máy nên nó hơi thô, hiện vẫn chưa hoàn chỉnh. Dù vậy, không thể phủ nhận đó chính là một tác phẩm siêu hạng của một kỹ sư tài hoa thích sống ẩn danh (tôi buột thốt: mảnh đất lãng mạn trên đồi trong rừng thông này sao lắm ý tưởng kỳ lạ, tạo nên bao nhiêu thứ thành quả ghê gớm khác người!).
“Vì sao em chôn bỏ nó?”. “Phi Yến không còn, con rô-bốt đâu còn cần cho ai”. “Phi Yến cần có con rô-bốt đó?”, tôi cố tình vặn hỏi tới nơi tới chốn. Phi Anh buồn bã, “Em còn cuộc đời riêng của mình, em không thể suốt ngày cận kề bên em gái”. Tôi gật – hoàn toàn lô-gích. Phi Anh không thể chôn vùi đời mình ở nơi khỉ ho cò gáy này. Cô có quyền được vi vu thong thả đó đây, có quyền được sống theo ý mình. Người máy chính là giải pháp. Nhắm mắt, tôi cố hình dung, một ma-nơ-canh giả danh cô chị đi ra đi vào trong ngôi nhà thiếu vắng tình thương, thiếu vắng hơi người, và cô em nhạt mờ – giống y như một ma-nơ-canh khác.
Tôi nhớ cuộc nói chuyện rời rạc qua điện thoại. Ngoài kỷ niệm ngắn ngủi ơ thờ và bông lơn đó ra, tôi hầu như không có dấu ấn gì đặc biệt về chân dung cô gái trẻ lặng lẽ. Dù sao cũng thấy xót xa khi chứng kiến Phi Anh tự dằn vặt mình. Sám hối – giờ đây cũng chẳng để làm gì. Ân hận, nuối tiếc – tất thảy đều vô ích. Dù biết vậy, nhưng người ta vẫn đau, đau như có thể chết…
Tôi đã ở bên Phi Anh cho tới lúc quanh cô chẳng còn ai. Tôi nhận ra, sự yếu đuối đã kéo con người ta lại gần với bản chất thật của mình nhất. Khổ đau, Phi Anh đã quên hết tất cả những điều luôn tâm niệm phải giữ gìn, che đậy, bưng bít. Còn tôi, đâm bối rối vì được là người mạnh mẽ, được ra tay bảo bọc cho cô. Trở về từ nghĩa trang, có lúc cô hầu như phải tựa người vào tôi để bước đi. Nước mắt cô nóng bỏng, thấm ướt vai tôi qua hai lần áo. Trong căn biệt thự nhỏ (không sửa sang được gì nhiều so với lần đầu tôi đến, có phần còn tàn tạ hơn), chúng tôi ngồi đối diện nhau. Phòng khách với những bức tường vô cảm trống trơn. Không gian thinh lặng, khiến ngỡ thời gian như đang nhỏ giọt. Bụi lơ mơ bám trên bàn ghế xưa. Ngoài trời, qua cửa sổ, bóng tối hạ màn dần. Hồi lâu Phi Anh đứng dậy vào trong, đem ra trao cho tôi một bức tranh. Khổ nhỏ, bốn mươi nhân sáu mươi. Chưa kịp đóng khung. Dưới ngọn đèn vàng cổ lỗ, ánh sáng hắt lên trong tranh kỳ ảo, mượt mà. Tôi ngỡ ngàng: chân dung của chính tôi. Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc. Phác họa một nụ cười xót xa.
Tôi ngước nhìn Phi Anh, thảng thốt:
– Anh cần được nghe em giải thích? Chuyện này…
– Nếu em nói ra, sẽ là phanh phui một điều bí mật ghê gớm…
– Anh có quyền được nghe không?
– Có. Anh có quyền…
Và cô đã nói. Giống như xưng tội lần cuối.
Hóa ra tôi cũng như bao nhiêu người khác, hết sức nghệch ngờ và cả tin. Một sự giả mạo ngoạn mục. Một kế hoạch tinh vi. Phi Anh quả là siêu trong những ứng biến tài tình… Suy cho cặn kẽ, chỉ vì tôi không có cơ hội, không linh cảm được đó chính là cơ hội. Tôi đã cố tình từ chối không tiếp cận em – một lần, hai lần, ba lần – để ngu dại đuổi chạy lao theo lớp vỏ hào hoa của nhan sắc, của sự mãnh liệt giả hình và ảo ảnh phù du của tài năng chân xác.
Trước ngày trở về, tôi một mình đi thăm ngôi mộ mới. Nấm đất nhỏ nhoi trên một sườn đồi, lọt giữa bạt ngàn hoa xuyến chi. Sương chiều bảng lảng, mây buông lửng lơ. Nữ họa sĩ tài hoa bạc mệnh, sống đời phiêu linh – ngắn ngủi mong manh nhưng chứa đầy ẩn ức. Bia mộ khiêm nhường định danh cuộc đời kín đáo của em. Nhưng chính em, Phi Yến, mới là tác giả đích thực của toàn bộ các bức tranh thêu kỳ ảo bằng tóc. Tác giả giấu mặt, tác giả khuất danh, tác giả trong bóng tối. Ngoài bệnh tim, em còn mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ: sợ tiếp xúc với con người. Sợ đám đông. Sợ để lộ mình. Sợ thay đổi hoàn cảnh sống. Sợ đối diện với những gì không quen thuộc.
Và đây là điều khó hiểu nhất trong toàn bộ các điều khó hiểu: rằng em yêu tôi. Phi Anh kể rằng Phi Yến đã thêu khuôn mặt tôi trong bức chân dung bằng tóc của chính em – mớ tóc càng về sau càng thưa, càng rụng, càng xác xơ – nhưng vẫn là tóc của trinh nữ. Thêu như lên đồng, như hồn thoát xác. Có những khi mải mê bị kim đâm vào tay đến rỏ máu, vậy mà em vẫn không hay. Là tôi đó ư? Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc. Phác họa một nụ cười xót xa. Là tôi ư? Tôi không thể tin, không thể nghĩ…
Tác giả: Nguyễn Thu Phương – Giọng đọc: Hùng Sơn