Truyện đêm khuya – Nông thôn, nông dân là một trong những đề tài luôn thu hút sự quan tâm của người viết và người đọc, người nghe. Truyện ngắn “Cơm gạo mới” cũng chỉ đề cập vài khía cạnh trong muôn mặt đời sống làng quê, đồng thời khắc họa số phận những người gắn bó cả đời với ruộng đồng thân thuộc…..
Giữa thu, gió heo may thổi se se trên cánh đồng tràn trề hy vọng. Làng đói đã mấy tuần nay, từng đôi mắt háo hức hướng ra cánh đồng mờ mịt trong sương. Thoắt cái lúa đã chuyển sang màu vàng chanh. Cả làng ào ra đồng, hối hả dưới cái nắng dịu nhẹ chưa đủ để làm chín già những ruộng lúa xác xơ.
Dé lúa lép kẹp nằm lọt thỏm trong thân lúa gầy còm, lơ thơ vài mảnh lá sâu sia. Mồ hôi từng dòng nặng nề bò trên gương mặt nhăn nheo của người già. Thanh niên cũng chẳng muốn trêu chọc nhau nữa, tất tả, ủ rũ, thở dài thườn thượt.
Cô tôi nén tiếng thở dài trong lồng ngực hóp heo, nhẫn nại như chiếc máy khâu nhịp những nhịp đều đặn xuống mặt ruộng, đặt về phía sau từng đon, gốc lúa nặng trịch mà đầu bông tun ngủn, loe hoe. Mỗi lần cô vươn vai cho khỏi mỏi, tôi nghe xương sống cô kêu rắc một tiếng, tưởng như sắp lìa ra. Rồi cô lại cắm cúi, nhấp nhô trên lúa, mảnh ruộng lúa còm không cao hơn nổi thân người chia đôi.
Những con chim cuổng, chim én mất tổ dáo dác bay lên đen trời, như tàn tro hóa vàng ngày ba mươi tết. Vài đứa trẻ nhảy loi choi khi vớ được ổ trứng nằm gọn trong đám lúa vàng ươm, hò hét nhau, đánh thức lũ chim. Bất chấp những cái vợt đang giơ lên, lũ chim vẫn điên cuồng lao vào lũ trẻ, hòng giằng lại ổ trứng, phát ra những tiếng kêu inh ỏi, kinh hoàng. Đến lúc cuộc hỗn chiến xảy ra, cánh đồng mới có chút âm thanh náo động.
Tôi lầm lũi đi sau cô, gom những đon lúa lại, cẩn thận, sẽ sàng, kẻo rụng mất những hạt lúa quý báu. Rồi tôi bó lúa lại thành từng ôm to, để lên bờ ruộng, vừa làm vừa thèm thuồng ngắm nhìn lũ trẻ vô tư đùa nghịch khắp cánh đồng.
Quết trầu trên môi bà đã khô lại, thâm xịt. Mình bà cong gập xuống ruộng như một dấu hỏi dường đã tuyệt vọng.
Theo bước chân thoăn thoắt của cô, gánh lúa cao lút đầu người đang nhún nhảy về làng. Không ít trai làng và cả các bà già lại trông theo ao ước, giá như cô là người nhà họ.
Cô tôi hai mấy tuổi rồi tôi không nhớ nổi, mà cô cũng chẳng cần biết, vì vài ba năm sau khi đã quá tuổi lấy chồng, chẳng ai hơi đâu mà tính tuổi mình nữa.
Những lúc thấy cô nép vào bụi cúc tần tần ngần nhìn đám cưới nhà ai đi ngang qua ngõ, tôi thương cô đến thắt lòng.
***
Hai đon lúa to xâu vào hai đầu đòn xóc, tôi phải gánh oằn lưng mà đập ra chỉ được vài đấu. Cô tôi đội thúng thóc trên đầu, từ từ nghiêng miệng thúng, để lúa từ trên tuôn xuống, bay lả tả. Hết buổi chiều mà đống thóc tụ lại chỉ bằng phân nửa đống văng ra nhưng cô dường như không để ý. Đôi lúc mái tóc dài mượt của cô xổ tung, óng ánh trong nắng, quấn quýt bay cả vào những hạt thóc vàng chanh.
Ánh mắt cô nhìn xa hun hút, sẫm màu sim chín. Rồi cô ngồi bệt xuống giữa sân, tẩn mẩn bóc những thân lúa vàng ươm, bóc những bầu đòng còn sót lại, tẩn mẩn tách ra từng tí một xem cây lúa chửa như thế nào. Bóc chán, cô nhấm nhẳn nhằn những dóng lúa ngòn ngọt.
Thấy tôi nhìn, cô chìa ra một nắm. Tôi lắc đầu, cô cắp cái thúng con con chạy vụt đi.
Đồng làng mê mải nắng, đám trẻ con gáy cháy khét đang chí chóe tranh nhau vạt thóc rụng góc ruộng. Khắp cánh đồng, trẻ con vừa mót thóc vừa đùa nghịch túm tụm, bóng chúng xeo xéo, gãy khúc, dài nghêu trên san sát gốc rạ.
Cô tôi cứ lủi thủi một mình, chỗ nào chúng mót chán rồi cô mới lê đến, cắm cúi như con chim sẻ nhẫn nại, lúc lúc lại bị lũ kiến lửa đốt nhói cả tay.
“Tao mà giàu, tao sẽ cho chúng mày ăn cả một nhà thóc”… Đàn kiến vẫn lầm lũi theo nhau ngoằn ngoèo, li ri, moi móc rồi hỉ hả lôi lên những hạt lọt sâu trong khe rãnh. “Lép cả, chúng mày ăn thế nào được mà cứ cố”. Cô vừa lẩn mẩn nói chuyện với lũ kiến, vừa hát lên những câu gì không rõ. Chỉ nghe một giai điệu miên man, da diết như cứa buốt ruột gan. Tôi không dám lại gần cô những lúc ấy.
Sau này lớn lên, tôi mới biết rằng mình hoàn toàn có lý. Khi được lặn sâu vào trong nỗi đau, người ta sẽ thấy mình có được niềm tin rằng những gì đã qua chẳng thấm tháp vào đâu, để sẵn sàng tiếp tục chịu đựng thêm những gì sẽ đến.
Cô tôi cứ ngồi thế cho đến khi hoàng hôn đã phủ sẫm đồng, những đống rấm cháy ngun ngún, khói luênh loang mờ ảo. Cái thúng con con chỏng trơ chỉ vài hạt lót đáy. Hơi lạnh miên man trải khắp cánh đồng sương buồn hiu hắt.
***
Chú Hiệp cụt uống hết hai ấm chè xanh rồi lệch thệch cái nạng gỗ ra tận hàng rào cúc tần ngóng cô. Bà tôi thương hại bảo chú vào nhà ngồi cho khỏi muỗi đốt. Chú cười hề hề, vỗ vỗ vào hai cái chân gỗ: “Có giỏi muỗi đốt vào đây, chỉ cong vòi. Bà cứ mặc con”. Bà lắc đầu, toan nói gì đó lại thôi.
Cô tôi về, người ngai ngái mùi khói. Chú Hiệp le te lấy nước, cầm quạt quạt lấy quạt để. Cô chả nói gì, ngồi vào bếp ăn cơm. Cô lấy một cái bát tô to, xới cơm, chan canh, và húp sùm sụp. Chú Hiệp vẫn ngồi bên cạnh, vừa quạt vừa cười âu yếm, xót xa.
Ăn xong, cô xỉa răng, súc miệng òng ọc. Rồi cô ra giếng.
Trăng lên lấp lóa sau những tán lá bưởi, lá mít. Chú Hiệp nháy nháy mắt với tôi, lộc cộc chống nạng theo cô. Chiếc dây chuyền vàng trên cổ áo được mở rộng của chú bắt ánh trăng sáng lấp lánh, lấp lánh. Cô tôi cúi xuống múc nước. Chú Hiệp nhìn hút vào tấm lưng và đường cong lượn tròn ôm lấy thành giếng, nuốt nước bọt. Đột ngột, cô giơ gàu nước, dội mạnh từ đỉnh đầu xuống.
Tóc cô xổ tung, nước bắn tung tóe. Chú Hiệp nhảy lùi lại, sững sờ. Nước bết dính hết áo vào khuôn người cô, ánh trăng tràn vào, đẹp ngời ngợi. Cô cứ tiếp tục múc nước, tiếp tục dội. Chú Hiệp dùng dằng mãi rồi cũng phải đánh tiếng chào bà tôi, ra về.
Nửa đêm tỉnh dậy, tôi nghe tiếng bà thủ thỉ: “Nó đồng ý ở rể, còn chê nỗi gì”? Tiếng cô tôi thút thít hồi lâu, rồi nghẹn ngào: “Đã lỡ thì lỡ cho luôn. Đèo bòng làm sao được hai cái chân gỗ hả bu?”. Bà tôi: “Nhà nó có của ăn, của để. Mày vất vả gần nửa đời rồi”. Cô tôi bật khóc tức tưởi: “Chân người ta bị què là do đi đào vàng sập hầm đấy, u biết không”?
***
Những ngày sau, cô tôi tối nào cũng ở ngoài đồng ngoài bãi rất muộn để tránh gặp chú Hiệp. Tôi cũng không thiết tha với những cái bánh khảo, kẹo bột hay cái súng cao su làm từ chạc cây ổi nhẵn bóng mà chú dúi cho nữa.
Chú lại rủ tôi tối tối sang nhà Tiến Chính xem video. Toàn phim chưởng Hồng Kông, đấm đá tít mù, yêu đương tay ba tay tư, chẳng phải làm gì mà vẫn có tiền phiêu bạt khắp giang hồ, ăn ngon mặc đẹp, đúng như sở thích của tôi. Giá vé mỗi lần xem là một trăm đồng, tôi thèm lắm nhưng đào đâu ra tiền, nên toàn chờ phim đã chiếu được nửa buổi, chủ nhà phải rời cổng vào sân để quản lý cái tivi to đại đặt giữa sân và đầu máy không bị bọn trẻ con quấy phá, lúc ấy tôi mới trèo tường vào.
Chắc có lần nhìn thấy tôi nhảy tường xuống bị ngã tập tễnh nên chú Hiệp cứ ăn cơm xong là sang nhà tôi chờ. Chú chả vội. Tôi có ăn cơm muộn, tắm muộn, chú càng mừng. Vừa chờ vừa tranh thủ kể những chuyến đi xa, thu được tiền nhiều thế nào, chuẩn bị mua sắm những gì bằng chất giọng vói cao đến căng cả cuống họng, để cô tôi dù đang giặt quần áo tận ngoài giếng hay đang cho lợn ăn phía sau nhà cũng phải nghe thấy.
Vài lần cô cố tình sai tôi làm việc này, việc kia để chú phải sốt ruột mà đi xem trước. Nhưng sau thấy như thế chỉ càng có lợi cho chú nên cô phải gọi tôi ra nói thẳng:
– Đừng bán rẻ cô lấy mấy buổi xem phim nhé.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Cô thở dài, xoa xoa đầu tôi, dịu giọng:
– Tranh thủ ôn lại bài vở đi. Lên cấp ba mà học dốt thì dù có lớn cô vẫn nọc ra đánh đít.
Vậy là ý cô đã quyết. Tôi là đứa ngán học hơn cả đi hót phân trâu. Ngồi trong lớp, chân tay thì tù túng, đầu óc cứ phải căng ra. Tôi thích được chạy nhảy tung tăng ngoài đồng, được tắm sông cùng trâu, được hò hét cho căng lồng ngực. Mắt thì nhìn trân trân lên bảng, nhưng đầu tôi lẩn vẩn tính toán chiều nay sẽ đánh trận giả với bọn thằng Tong xóm Bến ra sao. Lần trước bên tôi thua to, chỉ tại bọn chúng chọn được chiến lũy là dãy núi đất, nơi có nhiều hầm hào lô cốt thực dân Pháp còn bỏ lại. Lần này, nếu chúng tôi chiếm lĩnh rồi cố thủ ở đấy trước thì chúng cũng đã biết hết mọi ngõ ngách để tấn công.
Lại còn cuộc đua trâu ngày kia, cuộc thi bắn chim sẻ ngoài đồng Cói ngày kìa…
Cứ học kiểu như thế, tôi được lên lớp đã là may. Nên khi hết cấp hai, tôi nằn nì cô cho đi học lái máy cày, vừa được suốt ngày ngoài đồng, lại có tiền đỡ bà, đỡ cô. Cô tôi không nói gì, quằn lưng gánh nốt gánh thóc cuối cùng chứa trong chum, đi nửa ngày trời lên chợ huyện (bán được giá hơn chợ quê) mua cho tôi bộ quần áo kẻ sọc, mấy quyển vở, một cây bút Kim Tinh và hai quyển sách.
Tôi lại lấy cớ, từ nhà lên trường huyện những mười lăm cây số, dù tôi có muốn thì trước sau cũng phải nghỉ học thôi. Làm sao đi bộ ròng rã nổi ngày hai buổi suốt ba năm trời. Đến nước ấy thì cô có vẻ nản lòng thực sự.
Cô ngồi xoài xuống phản. Chỉ chờ có thế, tôi nhảy tót ra đồng. Đến khi tôi về, trời đã tối sẫm, cô tôi mới uể oải đứng dậy nổi lửa, khua nồi.
***
Mấy hôm nay nhà tôi đã phải ăn cháo độn sắn. Nuốt không trôi nhưng tôi vẫn không dám kêu ca. Tuổi ăn tuổi lớn, tôi ăn như hùm đơm đó, vì thế, có cái cho đầy bụng đã là may.
Khi lang thang ngoài đồng bãi hoặc tạt vào bờ rào hàng xóm, kiểu gì tôi cũng sẽ vớ được thứ gì đó có thể cho vào mồm. Một đống cuống rạ đốt khói mù mịt, vài con chuột đồng, sẻ đồng hay củ khoai mót nướng lên thơm lừng, hay quả ổi, quả sim hay bất cứ thứ hoa trái gì vớ được ở ruộng đồng hoặc dãy núi đất là đã đủ cho những trò đùa nghịch từ nửa chiều cho đến tối.
Nhưng cái chính là tôi vẫn rất thương cô, thương bà. Dường như trời phú cho những đứa trẻ mồ côi nhà nghèo sự mẫn cảm trước tuổi. Có lẽ tôi sẽ suốt đời phải khổ vì điều đó, nhưng lúc này đây thì tôi lại cám ơn sự mẫn cảm của mình. Chỉ cần tôi kêu nửa lời, có lẽ bà sẽ phải làm việc bằng hai, bằng ba lúc bấy giờ. Và cô tôi, hoặc cô sẽ suốt đời không lấy chồng, hoặc sẽ phải lấy đại một người nào đó như chú Hiệp để giúp cho tôi được đầy cái bụng.
Nhưng đi học là chuyện khác. Mười lăm cây số, tôi không thể vừa vắt chân lên cổ vừa mắt trước mắt sau kiếm hoa quả dại bỏ vào bụng. Tôi nhắc lại:
– Những mười lăm cây số, cháu không đi bộ được suốt ba năm được đâu. Cô cho cháu ở nhà đi làm.
Cô lại nhìn tôi, hai chân mày cau lại, ánh mắt đầy uy lực. Bà bảo, cô và bố tôi giống nhau như đúc, suốt ngày chả nói câu nào, nhưng đã mở miệng thì chẳng ai có thể đáp lại được. Tôi không còn bố để mà so sánh. Nhưng tôi chắc, ánh mắt kia, nếu là của bố tôi, thì ngay lập tức tôi đã phải tự mang roi lên để trên mông mình rồi.
***
Bỗng dưng tối ấy, thấy chú Hiệp đến nhà rõ sớm, ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt, nháy nháy mắt nhìn tôi, rồi đưa cho tôi gói kẹo lạc rõ ngon. Cô tôi đưa cho tôi một trăm, bảo đi xem phim. Bà thì đã đi hội Kể Hạnh với các cụ trong xóm. Tôi thấy nghi nghi, không đi xem phim nữa mà lén rình ở hàng rào cúc tần.
Tôi thấy chú Hiệp đưa ra một gói giấy báo, cô tôi cầm lấy đem cất vào buồng. Chú Hiệp đi theo, định ôm choàng lấy cô, bị cô đẩy ra ngã chỏng gọng, mãi mới lê được đôi chân gỗ để đứng dậy. Cô khẽ nói câu gì đó không rõ, nhưng tôi thấy chú ra về, miệng huýt sáo vang lừng.
Hôm sau tôi đã có chiếc xe đạp Thống Nhất nữ, tuy bong tróc hết sơn nhưng vẫn còn khá bắt mắt. Tôi bắt đầu tập xe quanh sân vì không dám ra ngoài đường, sợ bọn cùng xóm chê cười hoặc bu vào đòi đi thử thì hỏng hết cả xe. Cô cũng không biết đi xe, chỉ gồng tay chạy sau giữ xe cho tôi, hai chân cứ líu ríu, vừa thở hổn hển cô vừa luôn miệng nói cô thấy ngoài huyện người ta đạp thế này, chống chân thế kia.
Rồi tôi cũng mắm môi mắm lợi đạp được những vòng đầu tiên trước ánh mắt thán phục của cô tôi. Thêm năm vết bầm dập tóe máu ở đầu gối nữa thì tôi đã đi vững. Tôi guồng chân đạp như bay, chở theo cô tôi mắt nhắm tịt, mặt rạng ngời hạnh phúc, lướt qua trước mắt bọn thằng Tong, con Mẹt và kết thúc chuyến du hí đầy tiếng cười của hai cô cháu ở chân đống rơm.
Cô tôi cũng bị một cái u ở đầu gối, nhờ thế mà chú Hiệp càng được thể, tối nào cũng mang sang cho mượn lọ dầu Thái Dương chú mua tận ngoài tỉnh.
***
Có xe, tôi đi học chăm chỉ, nhưng cũng không giỏi hơn là bao. Tôi đi xe tối ngày, thậm chí, chỉ ra đầu ngõ mua mấy trăm nước mắm tôi cũng vác xe đi, thế là đâm phải con trâu, nước mắm đổ, bát cũng rơi vỡ mất. Cô không mắng, bà cũng không có thời gian để mắng. Bà xin vào một cơ sở đan lát rổ rá dần sàng tư nhân, ngày làm không hết việc thì đêm về chong đèn đan tiếp. Còn cô tôi, ngày nào cũng theo đò vượt sông sang làng bên đóng gạch, gánh gạch đến oằn vai. Đêm nào cô cũng bóp dầu vào vai rồi vỗ bồm bộp, bẻ lưng kêu lục khục.
Nghe tiếng cô ngáy, tôi khe khẽ tắt điện, lên giường. Nhưng chỉ năm phút sau, tôi đã thấy cô đến bên, túm tôi dậy, ấn đầu vào quyển sách.
***
Thấm thoắt lại đến vụ chiêm. Năm nay cả làng như vào hội. Lúa được mùa cứ trĩu cả lưng gánh mà lòng vui phơi phới. Nhưng tôi vẫn thấy bà buồn, cô buồn.
Mấy tuần nay, không biết ở đâu ra tin đồn chú Hiệp sắp cưới cô tôi. Lễ đã sắm đủ, ngày cũng đã chọn, chỉ chờ gặt xong là rước dâu. Thậm chí, tôi còn nhìn thấy giữa quán rượu, chú Hiệp ngồi dương dương tự đắc, khoe đã tắm sông cùng cô trước gần chục đôi mắt hau háu của trai làng.
Tôi phóng xe đâm rầm vào cửa quán, chú ngừng bặt, nhưng lại vẫy tôi đến cho gói lạc rang làm bọn trai làng cười ầm lên. Tôi cáu tiết vờ như không nghe thấy, vội vàng lao đi, tiếng cười ô ố vẫn đuổi theo sau lưng.
Ngày thường, đi làm từ sáng đến tối, cô không phải nghe ai hỏi han. Giờ cả làng tập trung ra đồng, tránh không được, giải thích mãi không ai tin, cô bực mình chọn giờ gặt vào sáng sớm và đêm khuya để khỏi nghe điều tiếng eo sèo.
Mải vồ chuột, tôi vẫn nghe tiếng cô khẽ nói với bà bằng cái giọng ưu tư:
– Có bán một nửa lúa vẫn chưa đủ.
Bà ngập ngừng:
– Hay là bán cả đi, rồi khi có đồng ra đồng vào thì đong gạo của hàng xáo ăn sau.
– Không được. Thằng bé đang tuổi ăn tuổi học. “Ăn vóc học hay, ăn mày học dốt”. Thôi, con sẽ có cách bu ạ.
Túm được con chuột đồng béo mẫm, quay lại vẫn thấy cô lấy nón quạt cho bà, hai mắt nhìn về đâu xa xăm lắm, tôi chợt nhớ ra, hớn hở khoe:
– Năm nay cháu được học sinh tiên tiến đấy. Gặt xong là cháu đi nhận phần thưởng.
– Thật không?
Tôi thấy bà cười, những nếp nhăn như giãn ra trên gương mặt nhăn nheo. Còn cô đi đi lại lại bên đống lúa vừa gặt xong, chân tay như muốn múa lên cùng chiếc nón. Tim tôi cũng đập rộn lên như muốn vọt ra ngoài lồng ngực để bắt đầu guồng chân chạy khắp cánh đồng.
***
Thức trắng đêm đập lúa, nhà nào cũng mong có bữa cơm gạo mới vì đã phải ăn khoai sắn quá lâu.
Nhìn thấy đống thóc quá ít của nhà tôi, chú Hiệp lại có vẻ mừng. Trăng sáng vằng vặc, mồ hôi trên trán cô long lanh, vài sợi tóc bết lại, loăn quăn phủ trên gáy càng làm cô trở nên đẹp huyền ảo, mơ màng. Chú Hiệp như ngây ngất. Chú lâng lâng tiến lại, vẻ như muốn ôm cô vào lòng. Cô trừng mắt nhìn chú:
– Anh Hiệp, nốt vụ này là tôi có thể trả hết tiền cho anh.
Chú Hiệp khựng lại, vò vò hai tay đầy bối rối:
– Cô hiểu lầm tôi rồi, tôi không sang để đòi tiền. Số tiền ấy có đáng là bao. Cô cho tôi được giúp cô là tôi mừng rồi. Mong cô cho tôi đi lại thường xuyên cho… tình cảm.
– Mẹ con bà cháu tôi đội ơn anh – cô tôi bình thản – nhưng cái gì phải ra cái nấy. Khi nào có tiền, tôi sẽ mang sang tận nhà anh trả, để khỏi phiền anh sang đây, hàng xóm dị nghị.
***
Rơm phơi vàng ươm khắp làng cũng là lúc mùa lũ tràn về. Dòng sông như con ngựa bất kham phăng phăng lồng xuống từ phía thượng nguồn. Bao nhiêu là gỗ, thân cây rừng, và cả những xác người trương to như bò mộng, theo dòng lũ ầm ào đổ về xuôi, chỉ còn củi rều dạt lại ở bến sông cùng với bọt nước trắng xóa.
Năm trước, bao nhiêu củi vớt được cả làng đều phơi ngay tại chỗ, bị mối xông mất gần hết. Đến mùa đông, cả làng xo xeo. Giữa đêm bà trở dậy, cặm cụi vét đáy bao ở góc nhà được một nắm củi vụn bỏ vào cái thau đồng đặt dưới gậm giường. Khói vẩn quanh nhà, bà ho sặc sụa.
Nhưng củi sưởi cuối cùng rồi cũng hết. Chẳng nhà nào còn để vay. Cái rét làm héo mặt cả làng.
Năm nay lũ về, nhà tôi đập lúa xong sớm, tranh thủ ra sông sớm để vớt của. Vật lộn cả ngày với sóng nước, bù lại chúng tôi lấy được những súc gỗ rừng to, chất cao như núi. Cô hăm hở giật từ sóng những gốc cây to bằng cả nửa chiếc chiếu, quyết liệt như thể sức lực điền. Cô chắc mẩm, cứ cố thêm vài ngày nữa, bán chỗ gỗ đi, cầm chắc có tiền để trả nợ. Cả mùa đông cũng không lo đói, lo rét.
Nhưng trời chẳng chiều lòng người. Chỉ được một ngày suôn sẻ. Ngày sau bão đã rầm rập kéo về.
Tôi đi đến trường bế giảng, nhận phần thưởng, đã dặn đi dặn lại cô và bà đừng quá cố, chờ bão tan hãy ra vớt củi tiếp. Cô tôi vừa cười vừa nói tưng bừng:
– Đi đi, đi nhanh về cho cô xem cái phần thưởng học sinh tiên tiến trường huyện nó thế nào.
***
Nếu không vì cô, vì bà, có lẽ tôi đã bỏ dở quãng đường mười lăm cây số gió táp phần phật muốn xô ngã cả xe cả người. Nhận phần thưởng xong, bọc kỹ càng năm quyển vở và tờ giấy khen vào tấm ny-lon, tôi đội mưa đạp như bay. Nhưng về đến làng vẫn muộn.
Con sông chưa kịp mang đến niềm vui thoát món nợ nặng nề khó trả thì đã cuốn cô tôi cùng với hy vọng nhỏ nhoi của cô trong sóng dữ đục ngầu.
Hai ngày sau, người làng dưới vớt được cô nhờ mái tóc dài nổi lập lềnh. Đám ma cô tôi không thiếu mặt ai trong làng.
Đoàn người lặng lẽ đi bên nhau trong cái nắng chói chang sau bão. Những vòng hoa trắng cứ rưng rưng trên tay các trai làng. Chú Hiệp xin bà vành khăn, bà cứ lưỡng lự mãi rồi khẽ khàng:
– Tôi không muốn anh buồn, nhưng anh đừng đeo thì hơn. Cho con tôi nó được nhẹ lòng.
Chú Hiệp đấm ngực thùm thụp. Chú bám theo sau quan tài, vừa khóc vừa kể lể thê thiết.
Chú Hiệp ơi, day dứt mà làm gì. Có nợ thì phải trả, cô tôi mất đi là số không may, chứ đâu phải do chú dồn ép. Chẳng có duyên, lại không có phận, chú tha thiết với cô tôi như thế cũng khiến người chết ngậm cười rồi.
Tôi đốt tấm giấy khen, đốt cả mấy quyển vở phần thưởng để cô tôi có thể được nhìn thấy, được vui nốt niềm vui cuối cùng như cô đã ước muốn.
Chú Hiệp chỉ lặng yên được một lúc rồi lại bưng mặt, khóc rưng rức.
***
Vậy là xong một kiếp người. Cô tôi mất mà vẫn chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới.
Bữa cơm gạo mới năm ấy cả làng tôi chẳng còn mấy ai hào hứng.
Mấy năm sau, bà tôi cũng khuất núi.
Chú Hiệp trọn đời chẳng lấy ai, tháng đôi lần chú lê đôi chân gỗ ra thắp hương mộ bà rồi ngồi cả buổi bên mộ cô tôi.
Còn tôi, trên bước đường đời lầm lụi của mình, năm nào tôi cũng cố mua cho được một vài bữa cơm gạo mới đầu mùa.
Thật lạ kỳ, bao giờ bữa cơm gạo mới cũng cứ rưng rưng một vị mặn mòi của nỗi nhớ quê nghèo, nhớ tuổi thơ lam lũ, nhớ những người đã khuất, nhớ cả những người còn sống đang nghỉ ngơi sau một mùa lúa nhọc nhằn.
Tác giả: Hương Thị – Giọng đọc: Phương Hằng