Bài nổi bật

Con thuyền kỷ niệm

RadioVn.Com – Điểm đầu tiên tôi chú ý đến ông là bộ ria mép dày, rậm cùng với đôi vai rộng. Điểm thứ hai đó là cách ông làm việc. Tôi quan sát ông suốt cả mùa hè. Ông cắt cỏ bằng những nhát hái mạnh và khéo léo, vun tất cả lại rồi đem phơi khô. Ông bó củi khô thành từng bó lớn, lần lượt vác về kho. Ông còn làm thịt một con lợn, bắt cá và đem đi muối, xay lúa mạch bằng một cái cối xay chạy bằng hơi nước, trồng và dự trữ khoai tây. Nội trong mùa hè ngắn ngủi, ông phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cho gia đình và lũ gia súc qua được mùa đông dài băng giá. Ông chỉ ngơi tay chốc lát để ăn uống và chợp mắt.
 
Ngày kia, sau chuyến đi sang làng bên, ông trao cho tôi một con dao nhỏ có vỏ bọc và nói: “Cái này cho cháu đây. Bây giờ cháu xem ông nhé!”. Ông rút dao ra khỏi vỏ, cắt một nhành cây tươi nhỏ, ngồi xuống bên cạnh tôi. Với đôi tay đầy vết chai, ông chỉ tôi cách làm ống sáo. Cho đến hôm nay, đã 63 năm trôi qua, cứ mỗi lần nghe âm điệu trong trẻo của ống sáo tôi lại nhớ đến tiếng nhạc phát ra từ ống sáo bằng cây tươi của ông tôi. Sống ở một nông trại miền núi hẻo lánh, ông phải học cách tạo ra mọi thứ với tất cả những gì mình có trong tay.
[jwplayer config=”custom” file=”http://radio.vnmedia.vn/Uploads/Radio/truyen-hay/005-tr-con-thuyen-ky-niem.mp3″ image=”http://www.vnradio.vn/Uploads/Images/655-xin-loi-a-y-e.jpg”]

Ngày đó, tôi luôn suy nghĩ một cách đơn giản là người ta cần cái gì thì mua cái đó. Tôi không rõ ông biết điều này không, nhưng hình như ông muốn dạy tôi một điều khác. Một hôm ông bảo: “Đi với ông, ông có cái này cho cháu”. Tôi theo ông xuống hầm, đến bên một cái bàn thợ mộc gần cửa sổ: “Cháu sẽ có một chiếc thuyền nhỏ, cháu có thể thả nó ở hồ Storvassdal”. Ông muốn nói cái hồ nhỏ cách nhà tôi vài dặm.
Tuyệt thật, tôi thầm nghĩ rồi nhìn quanh tìm chiếc thuyền. Nhưng chẳng thấy đâu. Ông nhặt một khúc gỗ dài lên. “Chiếc thuyền ở đây – ông nói – Cháu sẽ tự làm ra nó”. Đoạn ông trao cho tôi một lưỡi rìu nhỏ sắc như dao cạo. Tôi không rõ phải làm thế nào nên ông hướng dẫn tôi. Tôi bắt đầu đẽo phần mũi thuyền. Sau đó ông lại chỉ tôi cách sử dụng búa và dùi đục, tôi chuyển sang làm khoang thuyền. Thỉnh thoảng ông lại xuống tầng hầm, sửa lại vài chỗ vụng về hoặc mài sắc lại các dụng cụ. Ông trả lời câu hỏi của tôi nhưng hầu như mọi việc điều do tôi làm cả.
“Nó sẽ là một chiếc thuyền tốt. Cháu đã làm nó bằng chính đôi tay của cháu – ông nói – không ai có thể cho cháu những gì cháu tự làm cho bản thân”. Lời của ông vang vang trong đầu lúc tôi làm việc. Cuối cùng, tôi cũng hoàn thành phần khoang thuyền. Tôi làm tiếp một cái cột buồm và một cái mái chèo. Chiếc thuyền không có gì đặc sắc nhưng tôi thấy rất hãnh diện vì tôi đã làm ra nó, phấn chấn và thú vị.
Rồi với con thuyền nhỏ trong tay, tôi đi đến hồ Storvassdal. Tôi thả chiếc thuyền xuống hồ nước và bắt đầu mơ mộng. Một làn gió nhẹ đưa chiếc thuyền sang bờ bên kia. Khí trời thật trong lành. Xung quanh im ắng ngoại trừ tiếng líu lo của một chú chim non. Tôi trở lại hồ nhiều lần.
Ngày nọ mây đen kéo tới, sấm chớp ầm vang và mưa đổ xuống như trút nước. Tôi co người nấp dưới một tảng đá lớn và cảm thấy hơi ấm trong khe tỏa ra. Nhìn chiếc thuyền nhỏ của tôi ngả nghiêng giữa mặt nước nhấp nhô, tôi liên tưởng đến một chiếc tàu đang gặp dông bão, chiếc tàu dũng cảm đương đầu với biển cả dậy sóng. Một lúc sau, mặt trời ló ra và tất cả lại như cũ.

Gia đình tôi chuẩn bị quay về Mỹ. “Con không thể mang chiếc thuyền về nhà. Chúng ta có quá nhiều hành lý” – mẹ tôi bảo. Tôi van nài mẹ nhưng chỉ hoài công.
Lòng buồn bã, tôi đến hồ Storvassdal lần cuối cùng, tìm một tảng đá lớn, đặt chiếc thuyền vào khoảng trống bên dưới tảng đá, rồi dùng đá nhỏ chất đống lấp lại, quyết định ngày nào đó tôi sẽ quay lại tìm kho tàng của mình.
Tôi từ biệt ông tôi, không biết rằng đó cũng là lần vĩnh biệt. “Tạm biệt cháu”- ông nói và siết chặt đôi tay tôi.
Mùa hè 1964, tôi đến Na Uy với vợ con tôi. Một hôm tôi rời nông trại, đi bộ đến hồ Storvassdal, tìm lại tảng đá lớn ngày xưa. Tôi dời các viên đá nhỏ ra và thò tay vào khoảng trống bên trong. Tôi lôi chiếc thuyền ra, 34 năm qua nó đã nằm ở đây, chờ đợi tôi quay lại. Khoang thuyền và cột buồm bằng gỗ dày hầu như không hề bị suy suyển, riêng có lớp vải buồm đã mục nát.
Khi mân mê con thuyền, tôi cảm thấy như ông tôi đang hiện diện đâu đây. Ba chúng tôi lại được bên nhau. Giữa ông tôi, tôi và chiếc thuyền nhỏ thật sự có một mối dây liên kết gắn bó với nhau.
Tôi mang chiếc thuyền về trang trại cho mọi người xem và khắc lên trên mạn thuyền 2 con số 1930 và 1964. Có người gợi ý tôi nên mang chiếc thuyền về Mỹ. “Không được –  tôi đáp – Chỗ của nó ở dưới tảng đá bên hồ Storvassdal”. Và tôi đã mang nó về đặt ở chỗ cũ.
Tôi trở lại hồ các năm 1968, 1977 và 1988. Mỗi lần như vậy, tôi lại khắc số năm lên mạn thuyền. Ông tôi như gần gũi với tôi hơn. Lần cuối tôi đến Storvassdal vào năm 1991. Lần này, tôi dắt theo hai đứa cháu gái: Catherine 13 tuổi và Claire 12 tuổi. Trên đường lên núi tôi nghĩ đến ông tôi và thầm so sánh cuộc đời ông và cuộc đời của hai đứa bé. Catherine và Claire là mẫu người quyết đoán và độc lập hệt như tổ tiên xưa. Có điều không biết chúng có lỡ mất những thú vị thật sự của cuộc sống khi chúng được sinh ra trong hoàn cảnh đầy đủ hay không?
Bằng thái độ làm việc không mệt mỏi trên nông trại hẻo lánh này, ông tôi đã dạy cho tôi rằng chúng ta nên chấp nhận và phải biết ơn những gì ta có, dù ít hay nhiều. Chúng ta phải chịu đựng khó khăn và biết thụ hưởng niềm vui. Điều quan trọng nhất là phải dựa vào sức lực của bản thân để tiến lên trong cuộc sống.
Cháu tôi tuy cũng lớn lên ở vùng ngoại ô với những nông trại, nhưng cuộc sống rất đầy đủ và tiện nghi. Nhưng tôi luôn hi vọng và tin chắc rằng chúng sẽ có cách riêng của chúng để đương đầu với cuộc sống đầy khó khăn. Mong sao chúng hiểu được bài học ông tôi đã dạy tôi nhiều năm trước – bài học về con thuyền nhỏ cùng bức thông điệp về sự tự lực cánh sinh.
Trên núi cao, tôi ngập ngừng không mở lời như e ngại mình sẽ phá tan sự yên tĩnh. Chợt Claire cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Cô bé ngước nhìn tôi rồi nhẹ nhàng nói: “Ông ơi, ngày nào đó cháu sẽ quay lại nơi đây”. Một thoáng ngập ngừng, nó nói tiếp: “Cháu sẽ mang theo cả con của cháu nữa”.
AMOLD BERWICH
(Na Uy)
THỤY KHANH dịch
(Theo Reader’s Digest/USA 5-93)

Xem thêm đề xuất

Cafe âm nhạc 12h – Mùa hè

RadioVn.Com – “Đẹp như ánh bình minh bừng lên giữa đêm tối …Đẹp như cánh đồng …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *